Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích – Bài làm 1
Sau khi bị Mã Giám Sinh lừa gạt, Thúy Kiều rơi vào nanh vuốt của mụ Tú Bà, chủ một lầu xanh. Hiểu ra tình cảnh nhục nhã, éo le của mình, Kiều đã quyên sinh. Sợ bị mất cả vốn lẫn lời, Tú Bà hoảng hốt vội cứu sống Kiều, tạm đưa nàng ra ở lầu Ngưng Bích và hứa sẽ kiếm cho nàng một tấm chồng tử tế. Những ngày này, Kiều sông trong tâm trạng buồn bã, đớn đau. Bằng ngòi bút tài hoa, Nguyễn Du đã miêu tả cảnh Kiều ở lầu Ngưng Bích thành một bức tranh tâm tình đầy xúc động:
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Đoạn trích trên phản ánh tâm trạng buồn tủi, thương nhớ người yêu, thương nhớ cha mẹ và xót thương cho thân phận cay đắng của Thúy Kiều. Đoạn thơ là một dẫn chứng chứng minh cho nhận xét: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ của thi hào Nguyễn Du. Thiên nhiên ở đây bị bao phủ trong một nỗi buồn trĩu nặng, bởi Thúy Kiều nhìn cảnh bằng cặp mắt u uất, đau thương. Nỗi buồn từ lòng người thấm vào cảnh vật và cảnh vật hoang vắng, đìu hiu càng gợi mối sầu trong lòng người con gái bất hạnh.
Đang được sống trong không khí êm ấm, đùm bọc của gia đình; đang say sưa hạnh phúc với mối tình đầu ngọt ngào, trong sáng, Thúy Kiều bỗng dưng bị rơi vào cạm bẫy của cuộc đời. Nàng bị lừa gạt trắng trợn, bị đánh đập dã man, bị xúc phạm đến phẩm hạnh. Bao tai họa dồn dập đến với nàng chỉ trong một thời gian quá ngắn. Cả thể xác lẫn tâm hồn nàng bị những thế lực đen tối giày xéo, chà đạp không thương tiếc. Giờ đây, một mình ngồi trước lầu Ngưng Bích, giữa chôn đất khách quê người, Kiều hoàn toàn cô đơn, không một người thân thích để chia sẻ tâm sự đau thương. Bởi vậy, nỗi buồn đau càng lớn, càng sâu. Thúy Kiều chỉ còn biết san sẻ nỗi lòng cùng cảnh vật quanh nàng.
Trong sáu câu thơ đầu, tác giả tả khung cảnh quanh lầu Ngưng Bích bằng những nét chấm phá tài tình: vẻ non xa, tấm trăng gần, bốn bề bát ngát, cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia. Cảnh đẹp nhưng mênh mông, hoang vắng và lạnh lẽo. Nguyễn Du đã mượn cảnh để nói lên tâm trạng Thúy Kiều:
Trước Lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ờ chung.
Cha mẹ, các em, người yêu… tất cả đã xa xôi, cách biệt trùng trùng. Sống giữa một lũ mặt người dạ thú như Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh… Kiều chẳng khác gì một con cừu non giữa bầy lang sói. Có ai hiểu nỗi lòng nàng trong cảnh huống này? Nhìn một dáng núi xa, ngắm một vầng trăng gần, nàng cảm thấy đó là bè bạn. Nhưng những người bạn không lời này đâu có an ủi, chia sẻ được nổi buồn đang chất ngất trong lòng nàng? Bởi thế, nỗi buồn không thể nào vơi.
Dõi tầm mắt ra bốn phương, tám hướng, không hướng nào loé lên được một chút vui:
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Không một bóng người trên một vùng đất mênh mông, hoang vắng. Ướm vào thân phận, Kiều thấy mình nào có khác chi hạt cát, hạt bụi nhỏ nhoi. Giữa người với cảnh vừa có nét tương phản, vừa có nét tương đồng. Nỗi buồn của Kiều dường như cũng mở ra đến vô cùng như không gian vô tận trước mắt nàng. Càng cảm thương cho thân phận, cõi lòng nàng càng tan nát:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Cảnh buồn thì hay gợi nhớ. Kiều lặng lẽ, âm thầm gạt lệ khi hồi tưởng về bao điều tốt đẹp nay đã thành quá khứ. Nàng da diết nhớ người yêu cùng với mối tình đầu mãnh liệt và trong sáng:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Hình ảnh hai người cùng uống chén rượu thề trăm năm gắn bó đêm nào dưới Vầng trăng vằng vặc giữa trời giờ vẫn còn đậm nét, tươi nguyên trong kí ức nàng. Nàng thương chàng Kim giờ này đang sốt ruột trông chờ tin tức người yêu. Nghĩ về cha mẹ, lòng Kiều càng xót xa, đau đớn:
Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mẩy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm,
Giờ nàng đã đi xa biền biệt, lấy ai chăm sóc mẹ cha? Tuy đã cố dứt chữ tình đổ đáp đền chữ hiếu nhưng nàng vẫn không khỏi băn khoăn, thổn thức khi nghĩ đến cảnh cha già mẹ yếu, mòn mỏi đợi mong con trong vô vọng. Điều đó càng khẳng định nàng là người con hiếu thảo.
Mang một tâm trạng như thế nến Kiều nhìn đâu cũng chỉ thấy buồn:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Bốn lần từ buồn trông được nhắc lại, mỗi lần mở đầu cho một cảnh. Kiểu kết cấu lặp này gây ấn tượng mạnh về nỗi buồn sâu sắc của Kiều. Tám câu thơ, bốn bức tranh phong cảnh nhỏ trong một bức tranh phong cảnh – tâm tình rộng lớn. Bức thứ nhất: cửa bể chiều hôm mênh mông màu xám bạc. Trên cái nền ấy nổi lên một cánh buồm đơn độc, thấp thoáng ẩn hiện, không biết về phương trời nào. Bức thứ hai: ngọn nước mới sa (nước đổ từ trên cao xuống), cuốn theo những cánh hoa bị sóng gió dập vùi, đẩy đưa vào cõi vô định. Bức thứ ba: nội cỏ rầu rầu, héo úa, không còn sức sống. Bức thứ tứ: gió cuốn mặt duềnh, ầm ầm tiếng sóng…
Chúng ta bắt gặp ở đây bút pháp quen thuộc cửa Nguyễn Du. Cảnh vật chỉ mang tính ước lệ nhưng phản ánh rõ tình người, cụ thể là nỗi buồn không giới hạn của Kiều. Mỗi cảnh ngụ một ý, tăng dần lên theo suy nghĩ và mặc cảm về thân phận con người: lẻ loi, cô độc, trôi nổi, dập vùi, héo tàn và linh tính báo trước về một tương lai đen tối đầy bão tố.
Trong đoạn trích Kiều ờ lầu Ngưng Bích, thi hào Nguyễn Du tỏ ra rất xuất sắc trong việc tả cảnh và tả tâm lí nhân vật, Ngòi bút của ông đi sâu vào từng ngõ ngách tâm tư sâu kín của Thuý Kiều, khiến người đọc thực sự xúc động, xót xa cho số phận bất hạnh của người con gái tài sắc ấy, Cảnh và tình đan xen, hoà quyện, bổ sung ý nghĩa cho nhau, làm nổi bật chủ đề của đoạn trích. Có thể nói đây là một trong những đoạn hay nhất của Truyện Kiều.
Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích – Bài làm 2
Nguyễn Du là một thiên tài văn học, một tác gia văn học tài hoa và lỗi lạc của văn học Việt Nam. Ông được mệnh danh là thi sĩ của các nhà thi sĩ. Truyện Kiều là một tác phẩm lớn nhất của Nguyễn Du là đỉnh cao chói lọi nhất của nghệ thuật thi ca. Đọc tác phẩm, chúng ta không thể quên được đoạn trích “ Kiều ở lầu Ngưng Bích”.
Sau bao biến cố khủng khiếp: tai bay vạ gió, cha và em bị tù tội, gia sản bị cướp hết, Kiều phải hi sinh chữ tình để báo hiếu với cha mẹ. Bị Mã giám Sinh lừa gạt bán vào lầu xanh của Tú Bà, Kiều tự tử nhưng không chết. Tú Bà dỗ dành Kiều ra ở lầu Ngưng Bích để kén chồng nhưng thật chất đó là cuộc giam lỏng, chờ cơ hội mụ sẽ bắt Kiều trở lại lầu xanh. Lầu Ngưng Bích chơi vơi giữa biển khơi là điểm dừng chân đầu tiên trên con đường lưu lạc đầy cay đắng và tủi nhục của Thúy Kiều.Đoạn trích “ Kiều ở lầu Ngưng Bích” là nỗi cô đơn buồn tủi, niềm nhớ thương da diết về quê hương gia đình và người thân của Kiều. Đó cũng là thể hiện tấm lòng thủy chung hiếu thảo của nàng.
Trước hết với sáu câu thơ mở đầu của đoạn trích, là không gian nghệ thuật chứa đầy tâm trạng của Kiều.Trước mặt, là biển khơi từ trên lầu cao nàng cảm nhận được một không gian mênh mông rợn ngợp. Xa xa là dãy núi, hai bên bờ là cồn cát bụi mù bay. Chỉ có lầu Ngưng Bích đang giảm lòng một thân phận mỏng manh đơn côi. Đó là một không gian hoàn toàn khép kín. Một mình đối diện với “ mây sớm đèn khuya”. Khiến Kiều đau khổ đến tủi nhục bẽ bàng cho cái kiếp vô duyên lạc loài của mình:
“ Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
Không gian đã vậy thời gian cũng hoàn toàn khép kín khiến Kiều buồn tủi, lủi thủi một mình cô đơn đến tuyệt đối.
Đến với tám câu thơ tiếp theo là tâm trạng nhớ thương da diết của Kiều về gia đình và người thân. Trước hết, Nguyễn Du để cho Kiều nhớ Kim Trọng ( điều này khác hẳn với Thanh Tâm tài nhân). Nàng đã từng uống rượu ăn thề cùng Kim Trọng dưới ánh trăng nhưng rồi đã phải xót xa trao mối tình ngọt ngào ấy cho Thúy Vân. Trên đường về Lâm Tri theo Mã giám Sinh nàng vẫn thương cho Kim Trọng trong cô đơn buồn tủi : “ Một trời thu để riêng ai một người”. giờ đây trong lúc mà thời gian cứ trôi đi Kiều nhớ Kim Trọng là tưởng nhớ tới lời thề đôi lứa:
“ Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.”
Những lời thề nguyền đâu còn nữa, cái cây cầu trần thế mà Kiều và Kim Trọng phải bước qua thật là éo le. Nàng tưởng tượng cái cảnh Kim Trọng đang hướng về mình, đêm ngày đau đáu chờ tin mà uổng công vô ích “ Tin sương luống những dày trông mai chờ”. Trong nỗi nhớ ấy người đọc nhận ra một tâm trạng xót xa đau đớn. Nàng tự hứa “ Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”. Đó là tấm lòng thủy chung son sắt thề non ước biển của kẻ chung tình.
Tiếp đó, là Kiều nhớ tới cha mẹ. Nghĩ tới song thân Kiều vô cùng thương xót:
“ Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
Nàng nghĩ tới cái cảnh cha mẹ ngồi tựa cửa ngóng con lúc sáng sớm hay buổi chiều tà. Vậy mà vẫn bặt vô âm tín. Nàng xót xa lúc cha mẹ già yếu không có ai chăm sóc phụng dưỡng chăm nom. Tâm trạng nhớ thương vời vợi cùng với nỗi xót xa thể hiện sâu sắc tấm lòng hiếu thảo của nàng. Rất nhiều từ ngữ lấy từ điển cố cùng với từ ngữ dân gian vừa nói được thời gian xa cách, vừa nói đến sự tàn phai khốc liệt của thiên nhiên đối với con người. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm, phong cách cổ điển hài hòa với phong cách dân tộc tạo nên những vần thơ biểu cảm thể hiện một tâm trạng bi kịch, một cảnh ngộ đầy bi kịch của Kiều. Trong cảnh bình rơi trâm gãy Kiều là người đáng thương nhất nhưng nàng không nghĩ đến mình mà vẫn nhớ thương cha mẹ và người thân.Kiều thực sự là người tình thủy chung một người con hiếu thảo có tấm lòng vị tha đáng trân trọng.
Tám câu cuối, là cảnh xế chiều cảnh vật dễ làm cho con người buồn thương da diết:
“ Buồn trông cửa biển chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Mỗi biểu hiện của cảnh vật bên bờ biển lúc này đều thể hiện một tâm trạng và một cảnh ngộ đáng thương. Nhìn cánh buồm thấp thoáng giữa biển khơi rồi dần dần khuất bóng “ càng trông” lại càng thấy buồn, nàng liên tưởng tới cuộc đời nho nhỏ bơ vơ trơ trọi trên đất khách. Nhìn những cánh hoa tàn nát trôi giữa dòng nước lũ.Nàng tự hỏi rồi nó sẽ trôi về đâu về phương trời nào mà hoàn toàn vô định. Cánh hoa ấy hay chính số phận chìm nổi không có nơi nào neo đậu của số phận nàng Kiều. Nhìn nội cỏ dầu dầu trong không gian bao la, cái màu sắc ảm đạm thê lương ấy phản chiếu một nỗi đau tê tái của người con gái lưu lạc. Cuộc sống như mất hết ý nghĩa như cái sắc cỏ úa tàn kia mất dần sự sống. Rồi “ ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi” trận cuồng phong của biển cả bắt đầu nổi lên, gió to sóng lớn hay chính lòng đố kị ghen ghét của thiên nhiên đang bủa vây lấy nàng. Phải chăng đây là điều mà Nguyễn Du đã dự báo những tai họa khủng khiếp giáng xuống đầu nàng. Càng lo âu Kiều càng hãi hùng và ghê sợ. Cứ thế, từ nhìn đến nghe, “ buồn trông” đến bốn lân trong một điệp ngữ.
Tám câu thơ là một điệp khúc buồn được lặp lại qua sự thay đổi của từng cảnh vật. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, từ màu nhạt đến màu đậm, âm thanh từ tĩnh đến động nỗi buồn cũng từ “ man mác” đến lo sợ hãi hùng.Nguyễn Du đã từng kết luận :
“ Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Đoạn thơ sử dụng rất nhiều câu hỏi tu từ, các từ láy các thành ngữ, ngôn ngữ độc thoại nội tâm, âm hưởng trầm buồn tạo nên một không gian nghệ thuật và cảm xúc nghệ thuật.
Đoạn trích “ Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những đoạn thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất Truyện Kiều. Ngòi bút của ông đi sâu vào từng ngõ ngách tâm tư sâu kín của nàng Kiều khiến người đọc thực sự rung động xót xa. Cảnh trong tình, tình trong cảnh cứ hòa quyện đan xen làm nổi bật chủ đề đoạn thơ. Bức tranh tâm trạng của người con gái họ Vương vì thế neo đậu mãi trong lòng người đọc.
Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích – Bài làm 3
Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những đoạn tả cảnh ngụ tình hay nhất trong Truyện Kiều, Bằng ngòi bút tài hoa, Nguyễn Du đã khắc họa được tâm trạng buồn tủi, đau đớn và tủi nhục của Thúy Kiều, đồng thời thể hiện tâm trạng chung thủy son sắc và sự nhân hâu, hiếu thảo của Thúy Kiều.
Bị Mã Giám Sinh làm nhục, Tu bà bắt ép làm gái lầu xanh, Kiều vô cùng tủi nhục và đã tự vẫn để dứt nợ hồng nhan, nhưng lại không chết. Sợ mất vốn, Tú bà liền đưa Kiều ra ở lầu Ngưng Bích nhằm che giấu sự qua lại dòm ngó của mọi người và cũng để thực hiện âm mưu mới. Tại đây Kiều bị giam lỏng, chỉ có một mình tại lầu Ngưng Bích hiu quạnh. Khủng cảnh bốn bề bát ngát, mênh mông càng làm cho Kiều buồn não. Để diễn tã nỗi buồn của Kiều Nguyễn Du không trực tiếp tả Kiều mà ông tả cảnh, từ đấy lại thấy được nỗi buồn của Kiều được nhân lên bội phần.
Ngay từ câu đầu ta đã thấy được hoàn cảnh tội nghiệp của Kiều. Lầu Ngưng Bích đã chôn chặt một cô gái đang tuổi thanh xuân như Kiều. Lẽ ra thời điểm này Kiều phải được hạnh phúc, đi đó đây, tận hưởng tuổi tuổi thanh xuân, lứa tuổi đẹp nhất của một cô gái. Đã bao đêm Kiều trằn trọc, cô đơn với nỗi trống trải, buồn tủi và sợ hãi. Nguyễn Du đã chọn thời gian một đêm trăng để miêu tả tâm trạng Kiều. Ngồi trên lầu cao nhìn ra xa bốn bề bát ngát, Kiều thấy dãy núi mảnh trăng như ở cùng bức tranh, cảnh rất đẹp nhưng Kiều thì càng buồn tủi. Núi và trăng được ở chung một bức tranh còn Kiều và Kim Trọng lại phải cách xa nghìn trùng. Kiều lại càng buồn não hơn. Lại những cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia, tất cả như mở rộng không gian ra nhiều phía, càng tô đậm sự cô đơn của Kiều. Cảnh ấy tình ấy làm cho lòng Thúy Kiều như tan nát, càng thấm thía cãi bẽ bàng của thân phận.
Trong khung cảnh vắng lặng không một bóng người, không một tâm hồn thân thuộc bầu bạn, cái đau khổ tủi nhục vẫn cận đó thì Kiều nghĩ đến Kim Trọng, và sau đó nghĩ đến mẹ cha. Có người bảo rằng lẽ ra Kiều phải nghĩ về mẹ cha trước thì mới đúng là đứa con hiếu thảo. Thế nhưng có phải Nguyễn Du vô tình quên mất điều này và sự sắp xếp đó là vô tình hay có ý khác? Nguyễn Du lại có một ý khác. Kiều đã bán thân mình để cứu mẹ cha, đó là một sự hi sinh quả to lớn của Kiều cho cha mẹ, do đó có thể nói Kiều đã phần lớn làm được bổn phận người con khi hi sinh hạnh phúc cả đời mình. Kiều đã vô cùng đau khổ khi cân nhắc bên tình bên hiếu để rồi cuối cùng Kiều quyết định làm tròn chữ hiếu:
Đệ lời thề hải minh sơn
Làm con trước phải đền ơn sinh thành.
Kiều luôn ám ảnh, mặc cảm phụ tình Kim Trọng, cho dù nếu thời gian có trở lại Kiều sẽ vẫn làm như thế. Đó là lí do tại sao Kiều lại nhớ đến Kim Trọng đầu tiên. Từ khi bị Mã Giám Sinh làm nhục và giờ lại bị ép làm gái lầu xanh, nỗi đau đớn lớn nhất là Thúy Kiều không còn xứng đáng với Kim Trọng nữa. Do đó việc để Thúy Kiều nhớ Kim Trọng trước tiên là hợp logic tình cảm. Nhớ Kim Trọng, Kiều nhớ đến lời thề của tình yêu: Tưởng người dưới nguyệt chén đồng, rồi Kiều lại đau đớn nghĩ đến cảnh Kim Trọng đang khổ sở, buồn đau chờ mong bóng dáng mình:
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Trong khi đó mình lại đang bên trời góc bể bơ vơ. Câu thơ tấm son gột rửa bao giờ cho phai còn diễn tả tấm lòng son sắt của Kiều dù bị vùi dập nhưng vẫn mãi không phai mờ cũng như tình yêu của Kiều dành cho Kim Trọng là khôn nguôi và luôn còn mãi.
Bốn câu thơ tiếp theo Nguyễn Du miêu tả tâm trạng Kiều nhớ đến cha mẹ. Lòng Kiều ngập tràn thương xót khi nghĩ đến cảnh cha mẹ sớm chiều đau đáu mong chờ tin con. Rồi Kiều lo lắng không ai phụng dưỡng, lo chăm sóc cha mẹ thay mình. Thành ngữ quạt nồng ấp lạnh, những điển cố sân Lai, gốc tử để diễn tả tấm lòng hiếu thảo và niềm nhớ thương chạ mẹ của Kiều. Từ khi Kiều bị đưa đi xa nhà sân Lai cách mấy nắng mưa, mưa nắng đã làm thay đổi cảnh vật quê nhà ít nhiều, gốc tử đã lớn vừa người ôm chứng tỏ thời gian Kiều đi cũng đã khá lâu. Do đó mà Kiều lại lo cha mẹ mình sẽ thêm già yếu, càng nghĩ Kiều càng xót xa cho cha mẹ.
Có thể nói tám câu thơ độc thoại của Kiều ngắn gọn nhưng có giá trị nghệ thuật lớn lao. Nguyễn Du chú trọng ngôn ngữ độc thoại của nhân vật từ đó bộc lộ được tình cảm của nhân vật. Tám câu thơ cuối cũng tả tâm trạng Kiều nhưng bằng cách khác: tả cảnh ngụ tình. Sau khi thương nhớ, lo lắng cho người thân, người yêu mình, Kiều mới quay lại thực tại và càng đau đớn hơn cho số phận, tương lai mình. Nhìn cảnh trống trải, xa vắng mà chua xót thay! Mỗi câu thơ như gợi lên một nỗi buồn thảm, hãi hùng lắng sâu trong vô thức:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông hội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Bốn cặp câu thơ lục bát, mỗi cặp gợi lên một nỗi buồn man mác, một cảnh bi ai. Điệp khúc buồn trông cất lên như một bản nhạc nhẹ đầy xúc cảm mãnh liệt của một tâm hồn và trái tim tan vỡ. Buồn trông là buồn mà nhìn ra xa ngóng trông một cái gì đó mơ hồ sẽ đến làm thay đổi thực tại, Hình như Kiều mong một cánh buồm nơi cửa bể, cánh buồm đưa Kiều trở lại quê hương, xứ sở của mình, thế nhưng cánh buồm lại thấp thoáng, xa xa không thể rõ được và mỗi lúc một xa như ước vọng mơ hồ và dần tụt khỏi tầm tay của Kiều. Kiều lại trông ngọn nước mới từ cửa sông chảy ra biển, một cánh hoa đang lênh đênh trên sóng nước bị xô đẩy không biết sẽ đi theo hướng nào. Phải chăng cuộc đời Kiều sẽ như bông hoa giữa dòng ấy?
Kiều buồn trông về bốn phía, chân mây mặt đất, về nội cỏ rầu rầu. Nội cỏ một màu héo úa, trải dài bất tận từ mặt đất đến chân mây. Thật đúng là nhìn cảnh lại đau thêm lòng. Kiều lại buồn lòng nghĩ đến một cuộc sống tẻ nhạt, vô vị ở chốn này, không biết sẽ còn kéo dài đến khi nào.
Nhìn xa rồi nhìn gần, nàng nghe thấy tiếng gió gào, tiếng sóng ầm ầm nổi lên như muốn vây chụp lấy nàng? Phải chăng những âm thanh dữ dội ấy tượng trưng cho những tai họa khủng khiếp sắp giáng xuống đầu nàng.
Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc, Nguyễn Du đã khắc họa nội tâm của Kiều một cách tinh tế. Qua đó, người đọc đã cảm nhận được cảnh ngộ éo le mà nàng phải chịu đựng. Tâm tư của Thúy Kiều vẫn không phai mờ trong tâm trí của chúng ta mỗi khi đọc lại Truyện Kiều. Ta cảm thương cho số phận của Kiều. Nàng như “bèo đạt mây trôi” giữa đòng đời tẻ nhạt. Xã hội phong kiến bất cồng đã chà đạp lên nhân phẩm của người phụ nữ “tài sắc vẹn toàn”. Xã hội đen tối ấy nhất định sẽ bị diệt vong, còn người tốt như Kiều sẽ giải được oan khác của mình.
Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích – Bài làm 4
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh thiên nhiên đồng thời là một bức tranh tâm trạng có bố cục khéo léo và chặt chẽ hơn. Thiên nhiên ở đây thay đổi liên tục theo tâm trạng của con người. Đặc biệt nhân vật được nói tới ở đây là Thúy Kiều.
Nguyễn Du được xem là bậc thầy về tả cảnh, mỗi câu thơ ông tả nên được xem là chuẩn mực cho vẻ đẹp trong thơ ca cổ điển. Không dừng lại ở đây, ông không chỉ là giỏi về tả cảnh mà cò giỏi về tả tâm tạng của con người. Trong thơ văn ông có hai yếu tố tình cảm và cảnh vật luôn đi liền không tách rời nhau,bổ sung cho nhau.
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình xúc động. Bằng phút pháp tả cảnh ngụ tình thì tác giả đã miêu tả rất rõ tâm trạng của nhân vật một cách xuất sắc nhất. Đoạn thơ đã cho chúng ta thấy rõ nhiều cung bậc tâm trạng của nàng Kiều. Đó là nỗi cô đơn, tấm lòng thủy chung, sự buồn tủi và tấm lòng nhân hậu nàng giành cho Kim Trọng và cha mẹ của nàng.
Kết cấu của đoạn trích phần đầu tác giả giới thiệu cảnh Kiều bị giam lỏng ở lầu ,phần thứ hai trong cô đơn và buồn tủi và cuối cùng là sự đau buồn của Kiều và những dự cảm về bão tố cuộc đời giáng xuống Kiều.
Thiên nhiên trong đoạn đầu được miêu tả với khung cảnh hoang vắng và bao la đến rợn người. Ngồi ở trên lầu cao nhìn núi non trùng điệp, phía trên như ánh trắng sắp chạm tới đỉnh đầu còn ở phía dưới là những dải cát vàng nhỏ bé càng tô đậm thêm sự cô đơn nhỏ bé và lẻ loi lúc này :
Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia
Một không gian mờ mịt và dàn trải hiện ra trước mắt Kiều,không gian ấy càng khiến cho con người ta đau đớn và xót xa biết mấy :
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Từ “bẽ bàng” cho thấy tâm trạng Kiều lúc này thật sự rất buồn tủi, nàng buồn tủi cho thân phận mình, vừa xấu hổ lại vừa tủi nhục. Và cảnh vật cũng như đang chia sẻ ,đồng cảm với nàng “nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”. Đây chính là bức tranh tâm trạng của Kiều ở những chuỗi ngày tháng cô đơn nhất khi nàng ở lầu Ngưng Bích.
Nỗi nhớ người yêu,nhớ cha mẹ rất xúc động đươc độc thoại trong nội tâm của nhân vật.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm thân gột rửa bao giờ cho phai.
Lời thơ như chứa đựng sự thổn thức của trái tim đang yêu rỉ máu, nỗi nhớ của Kiều giành cho Kim Trọng như đang rỉ máu,nỗi nhớ của Kiều dành cho Kim Trọng thật sự là rất mãnh liệt . Kiều đang tưởng tượng ra cảnh chàng Kim đang từng ngày mong nhớ mình, nhớ trong đau khổ và tuyệt vọng .Chén rượu thề nguyền vẫn chưa ráo ,vầng trăng giữa trời vẫn chứng giám cho lời thè của cả hai bên vậy mà giờ đây mỗi người một ngả một phương trời,nàng không biết rồi đây sẽ đi đâu và về đâu.Kiều tiếc nuối mối tình đầu đang dang dở và trong trắng của mình và bóng của chàng Kim không hề phai nhạt trong lòng nàng.
Nhớ người yêu nàng còn xót xa nhớ đến cha mẹ, lòng nàng càng đau thắt,tuy là đã giúp cha mẹ và em thoát khỏi vòng tù tội nhưng mà khi nghĩ về cha mẹ nàng vẫn không nguôi nhớ họ và luôn lo lắng cho tương lai của họ. Nàng lo không biết thời tiết như thế nào, có thay đổi gì không . Nàng lo ai là người chăm sóc cha mẹ già , ai là người quạt cho cha mẹ lúc trở trời trái gió. Nguyễn Du đã rất thành công khi sử dụng thành ngữ điển cố để thể hiện tình cảm sâu nặng của người con, của phận làm con. Qua đó cho thấy Kiều là một người con rất mực hiếu thảo.
Nhớ người yêu và cha mẹ nhưng cuối cùng nàng lại bừng tỉnh quay về với thực tại của mình, sống với ngổn ngang những tâm trạng và với thân phận hiện tại của bản thân. Mỗi cảnh vật được hiện lên qua con mắt một nỗi buồn.
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Mỗi cảnh vật hiện ra qua con mắt của Kiều ở lầu Ngưng Bích đều nhuốn một nỗi buồn sâu sắc đến khó tả. Mỗi cặp câu đều gợi ra một nỗi buồn,cái buồn nhìn ra xa trông ngóng một thứ gì đó mơ hồ sẽ làm thay đổi tình trạng hiện tại của mình.
Từ khóa từ Google
- phân tích kiều ở lầu ngưng bích