Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng – Bài làm 1
Trong nền thơ ca kháng chiến Việt Nam giai đoạn 1945-1954 Quang Dũng là một trong những nhà thơ tiêu biểu. Ông là một nhà thơ đa tài, nổi bật hơn cả là lĩnh vực thơ văn với tập thơ nổi tiếng “Mây đầu ô”, trong đó đặc sắc hơn cả là bài thơ Tây Tiến.
Bài thơ Tây Tiến thể hiện nỗi nhớ của nhà thơ về thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ mà lãng mạn, yên bình:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Bài thơ mở đầu bằng một nỗi nhớ:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Nhà thơ gọi tên sông Mã – cong sông chảy qua một số tỉnh miền tây Thanh Hóa, là con sông gắn liền với cuộc trường chinh của người lính Tây Tiến. Bởi thế cho nên trong cảm nhận của nhà thơ con sông như một chứng minh lịch sử, một người bạn đồng hành trong suốt cuộc hành trình. Nhưng giờ “sông Mã xa rồi…” tất cả những kỷ niệm của một thời bão lửa đã lùi xa vào quá vãng. Tuy vậy nỗi nhớ về đồng đội vẫn luôn nóng hổi, tươi nguyên như ngày nào để rồi tác giả phải thốt lên “Tây Tiến ơi”. Nhà thơ gọi tên đoàn quân Tây Tiến như gọi tên những người thân yêu ruột thịt nhất của mình. Chỉ một từ “ơi” ấy thôi người đọc như cảm nhận được những cảm xúc dồn nén, những nỗi nhớ niềm thương tha thiết. cháy bỏng của nhà thơ. Cùng với nỗi nhớ về đoàn quân Tây Tiến là nỗi nhớ về rừng núi thiên nhiên:
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Chỉ một dòng thơ thôi nhưng với điệp từ “nhớ” ta như thấu hiểu những cảm xúc trong lòng nhà thơ. Nhà thơ nhớ về cảnh sắc thiên nhiên, nhớ về nơi in dấu bao bước chân của đoàn quaqan Tây Tiến với nỗi nhớ “chơi vơi”. Quang Dũng thật tài tình khi đong đầy tất cả những cung bậc tình cảm, cảm xúc trong nỗi nhớ ấy. “Nhớ chơi vơi” ấy là nối nhớ không rõ nét, không xác định, khó nắm bắt, một nỗi nhớ khiến con người ta có thể thoát khỏi thực tại để chìm đắm trong những kỷ niệm ngày xưa. Trong ca dao cũng từng có những nỗi nhớ như vậy:
“Ra về nhớ mãi chơi vơi”
Hay Xuân Diệu cũng từng viết:
“Tương tu nâng lòng lên chơi vơi”
Tuy vậy nỗi nhớ “chơi vơi” trong thơ Quang Dũng lại có sức ám ảnh thật lớn, đọng lại trong lòng người đọc một ấn tượng không phai nhòa. Hai câu thơ mang chút gì đó bang khuâng, hoài niệm gợi lại những kỷ niệm thân thương. Ta như thấu hiểu hơn tâm hồn của một nghệ sĩ, Quang Dũng dương như đang bứt mình khỏi thực tại để đắm chìm trong những nỗi nhớ “chơi vơi”.
Từ nỗi nhớ ấy, hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hiện về:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”
Biết bao địa danh được nhắc đến trong bài thơ, đã từng có ý kiến cho rằng: ‘những tên đất, tên làng, bao cái tên đọc lên mà muốn khóc”, đó là nơi đã in dấu bước chân mà đoàn quân từng đi qua mỗi một vùng đất, địa danh như nhân chứng sống cho cuộc hành trình của đoàn quân. Từ câu thơ trên ta như hình dung được thật rõ nết cuộc hành trình. Đoàn quân Tây Tiến đi trong sương mù dày đặc của núi rừng, hình ảnh họ như chìm đi, ẩn hiện trong lớp sương huyền ảo. Hình ảnh “sương lấp” gợi sự khắc nghiệt của thời tiết, khí hậu miền tây. Trong suốt cuộc hành trình của mình họ phải đi trong sương mù dày đặc do đó không tránh khỏi cảm giác mệt mỏi.
Nếu như câu thơ trên nhà thơ đặc tả hoàn cảnh khắc nghiệt của thời tiết thì câu dưới lại phác họa vẻ đẹp cảnh sắc thiên nhiên và tâm hồn n gười lính:
“Mường Lát hao về trong đêm hơi”
Quang Dũng quả thật tài tình trong việc sử dụng từ ngữ. Nếu như bao người nói hoa nở thì nhà thơ lại nói “hoa về”, “hao về” là một sự nhân hóa độc đáo khôn cùng. Những đóa hoa xuất hiện trong “đêm hơi” , lạ lẫm thay, sao không phải là đêm sương? Phải chăng nếu trong đêm sương lạnh giá ta sẽ không thể nhìn thấy hoa. Để rồi, nhà thơ để hoa về trong “đêm hơi”. Qua hai chữ “đêm hơi” ta như hình dung ra mooth không gian lung linh huyền ảo của núi rừng nơi đây. Trong không gian ấy hoa muôn sắc màu trở nêm đẹp hơn, lộng lẫy hơn. Hai câu thơ như hai nết vẽ tương phản thể hiện hai cực điểm nổi bật của mảnh đất miền Tây khắc nghiệt thật đấy nhưng thơ mộng đẹp đẽ vô cùng. Và có lẽ những người lính Tây Tiến hẳn phải tinh tết, lãng mạn lắm mới có thể cảm nhận được vẻ đẹp của núi rừng nơi đây, Những khó khăn của hoàn cảnh sống không làm mất đi ở họ nết phong phú trong thế giới tâm hồn. Như vậy, bốn câu thơ đầu của bài thơ đã thể hiện được cảm xúc của “Tây tiến” nhớ cảnh bao nhiêu thì nhớ người bấy nhiêu, đặc biệt là nỗi nhớ đồng đội – những con người đã cùng nhau vào sinh ra tử, xông pha nơi trận mạc bão bùng.
“Dốc lên khúc khửu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xống
Nhà ai Pha Luông Mưa Xa khơi”
Bốn câu thơ được đánh giá là những câu thơ tuyệt bút, thể hiện sự tài hoa của Quang Dũng, phối thanh, gieo vần, sử dụng từ láy. Đồng thời đó chính là bắc tranh ký thác cảnh thiên nhiên miền Tây hung vĩ, dữ dội vô cùng. Trong câu thơ thứ nhất mật độ thanh trắc dày đặc đã tạo neen cái trúc trắc, không bằng phẳng trong từng câu chữ. Phải chăng đó là cái gập ghềnh uốn khúc của con đường. Các cặp từ “dốc” gợi hình ảnh những con dốc trùng điệp, gian nan, khó nhọc vô cùng. Và nếu như “khúc khửu” gợi những con dốc trắc trở gập ghềnh thì “thăm thẳm” không chỉ gợi độ cao mà còn gợi chút gì đó lạnh lẽo heo hút bởi độ cao của vực sâu. Đường hành quân gian nan biết bao, ta như nghe thấy từng hơi thở gấp gáp, nhọc nhằn của những người lính. Họ đi trên dduwownhf hành quân mà như đang bồng bềnh giữu biển mây, mũi sung chạm trời. Câu thơ không những gợi độ cao mà còn thể hiện chút gì đó tinh nghịch, hồn nhiên, hóm hỉnh đầy chất lính. Con đường giờ đây bỗng trở nên xa tít, nhưng chưa hết:
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
Nhờ thơ đặt dấu phẩy giữa câu thơ hay chăng là 1 dụng ý nghệ thuật, dấu phẩy ấy khiến cho câu thơ như gập làm đôi để ta hình dung về một con đường gấp khúc với muôn vàn gian nan trắc trở. Câu thơ được viết với thủ pháp nghệ thuậ đối lập độc đáo. Con đường như gấp khúc ngàn thước, ngàn thước…Lên cao thì cao tít tắp mà xuống thì khiến người ta chóng mặt vì một bên là dốc cao thẳng đứng một bên là vực thẳm không giới hạn. Rõ ràng thiên nhiên tây bắc rất giữ dội, nó như thử thách lonhf quả cảm, ý chí sắt đá của con người. Người lính Tây Tiến hẳn rất can trường, dũng cảm thì mới vượt qua những khó khăn ấy. Câu thơ dương như tả cảnh nhưng để tô đậm tầm vóc ý chí người lính Tây tiến.
Nếu như ba câu thơ trên được gieeo nhiều thanh trắc thì câu dưới lại được tạo nên bởi hàng loạt thanh bằng:
“Nhà ai pha luông mưa xa khơi”
Những người lính Tây tiến đôi lúc dừng chân trên cuộc hành trình. Hojk dừng chân để hướng con mắt nhìn về những ngôi nhà sàn của nhân dân nếp mình trong những triền núi, thung lũng sâu xa. Đâu đó trên đường hành quân, những người li nhs nhần thấy những ngôi nhà sàn hình ảnh ấy dường như mang lại sự ấm lòng cho những người con nơi chiến trường gian khổ.
Quang Dũng đã miêu tả rất chân thực cuộc hành quân của những người lính. Dường như những tên đất, tên làng kia đã trở nên quá đỗi thân thuộc với họ. Để rồi hình ảnh những người lính hiện lên thật ấn tượng.
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên sung mũ bỏ quên đời”
Đã từng có người cho rằng, trong hai câu thơ này người lính gục sung mà ngủ nhưng cũng có ý kiến cho rằng người lính “không bước nữa” ấy là họ hi sinh. Đặt trong chỉnh thể ta nên hiểu những người lính đã hi sinh. Sự hi sinh ấy của họ thanh thản, nhẹ nhàng. Với họ chết chỉ là đôi bàn chân không bước nữa, chết chỉ là chìm sâu vào giấc ngủ. Người lính ở đây hi sinh trong tư thế hành quân: mũ vẫn trên đầu, sung vẫn cầm trên tay. Dường như ta đã từng bts gặp người lính hi sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ:
“Và anh chết khi đang đứng bắn
Máu anh phun như lửa đạn cầu vồng”
(lê Anh Xuân)
Tuy chìm đắm trong tư thế hi sinh đẹp đẽ của những người lính nhưng hình ảnh cảnh sắc thiên nhiên miền tây bắc vẫn ám ảnh trong tâm trí nhà thơ:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm mường hịch cọp true người”
Thiên nhiên miền tây được miêu tả qua âm thanh của tiếng tác gầm thét tiếng cọp true người, hai câu thơ gợi sự dữ dội của chốn rừng thiêng nước độc, thâm sâu cùng cốc. Đặc biệt với những từ láy chỉ thời gian “chiều chiều, đêm đêm” người đọc dường như thấu hiểu phần nào nỗi khó khăn gian nan vất vả mà người lính Tây tiến phải trải qua. Thiên nhiên miền tây bắc càng khắc nghiệt bao nhiêu thì những người lính càng can trường bấy nhiêu. Quang Dũng đẫ viết về cuộc hành quân của những người lính tây tiến bằng chính sụ thấu hiểu của một người từng trải.
“Nhớ ôi Tây tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Trên đường hành quân người lính nhớ những bữa cơm ấm áp tình đồng đội, nhớ tới hương vị của tình quân dân. Mùa thơm nếp xôi quấn quýt, vấn vị vào tâm trí con người. Dường như trong câu thơ của Quang Dũng ta vẫn cảm nhận được mùi thơm của nếp xôi, kỷ niệm đã qua rồi ma như vẫn còn tươi mới đây thôi.
Hai câu thơ khép lại với hình ảnh núi cao vực thẳm, mùi hương thơm của nếp xôi vương vấn để mở ra một thời gian khác trong đoạn tiếp theo:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo từ bao giờ
Khèn lên man ddiieuj nàng e ấp
Nhác về Viên chăn xây hồn thơ”
Đêm hội tràn đầy ánh sáng, ánh sáng của những bó đuốc như bông hoa lửa trong đêm tràn đầy màu sắc, nhộn nhịp, rồn ràng âm thanh của tiếng khèn man điệu. Nếu như cảnh sắc thiên nhiên miền tây gợi cái heo hút thâm u của núi rừng thì giờ đây tất cả đã lùi xa,. Những người lính được chìm đắm trong tiếng khèn man điệu, trong những điệu nhạc rộn ràng, tươi vui.
Trong khung cảnh thiên nhiên đất trời ấy, người lính Tây tiến hiện lên với vẻ đẹp hào hung và hào hoa:
“Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ hà nội dáng kiều thơm”
Đến đây hình ảnh người lính mới được hiện lên một cách trọn vẹn, nhà thơ sử dụng từ ‘đoàn binh” cùng nhịp thơ chắc khỏe mang đậm hào khí.
Đoàn binh được miêu tả hết sức dị thường: “Tây tiến đoàn binh không mọc tóc”, bệnh sốt rwts đã làm cho tóc của những người linh không mọc được. “Quân xanh màu lá” đây có thể hiểu là mày xanh của lá ngụy trang hay bệnh sốt rét đã làm cho nước da của người lính trở nên xanh xao.
Phải chăng ta nên hiểu đó chính là những di chứng của bệnh sốt rét. Trên đường hành quân những người lính phải đi qua bao chốn rừng thiêng nước độc, thử hỏi làm sao họ tránh khỏi căn bệnh sốt rét quái đản kia.
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Cái mộng ở đây chính là cái mộng chiến đấu lập công cho đất nước. Từ “Mắt trùng” gợi ý chí chiến đấu quyết tâm của người lính Tây tiến, khao khát được xả thân vì từng tấc đất của quê hương tổ quốc..ánh lên khát vọng hoài bão lớn lao của tuổi trẻ.
“Rải rác biên cương mộ viễn xứ”
Giữa lúc thơ ca giai đoạn khánh chiến chống pháp tránh nói về sự hi sinh mất mát thì Quang Dũng lại nói nhiều về điều đó, bởi chiến tranh nào tránh khỏi sự mất mát hi sinh. Trong câu thơ trên nhà thơ sử dụng nhiều từ hán việt làm sang trọng cái chết của người lính. Nơi biên cươi của tổ quốc có biết bao nấm mồ vô danh. Những người lính tây tiến là những người lính vô danh nhưng họ đã làm ra đất nước. Chính vì vậy lời thơ không chùng xuống mà hào hung hơn ở những câu thơ tiếp theo:
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Câu thơ nói về cái đẹp trong lý tưởng sống của người lính tây tiến, các anh đã dâng hiến đời mình không hề tiếc vì khúc khải hoàn ca của đất nước của dân tộc: “chẳng tiếc” vừa gợi sự ngang tang, khẩu khí, bất cần, câu thơ như một câu nói cửa miệng của người lính.
Biết bao người đã ra đi, đã sống theo phương châm quyết tử cho tổ quốc quyết sinh đó là Vũ Xuân, là Đặng Thùy Trâm:
“chúng tôi đi không tiếc đời mình
Nhưng tuổi 20 làm sao chẳng tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi 20
Thì làm gì còn tổ quốc”
(Trường ca những người đi tới biển)
Những người lính đã hi sinh vì phương châm ấy, bởi vậy Quang Dũng đã tiễn đưa họ:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Tây tiến gầm lên khúc độc hành”
“áo bào” vốn là chiếc áo quan trọng vua ban cho chiến sĩ ngày xưa khi ra trận. Thực tế những người lính tây tiến không hề có áo bào bọc thây khi khâm liệm. Trong hình dung của Quang Dũng, các anh về với đất mẹ trong chiếc áo sang trọng của tráng sĩ ngày xưa. Hình ảnh áo bào ấy vừa làm sang trọng cái chết của người lính vừa an ủi những người còn sống. Lời thơ không gợi sự bi lụy, yếu mềm, đau thương dù là viết về sự hi sinh mất mát. Tiễn đưa người lính về với đất mẹ thân yêu có tiếng gầm của dòng sông Mã:
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Nếu như trong văn tế nghĩa sĩ Cần Duộc, văn tế Trương Quỳnh Như là tiếng khóc của con người dành cho con người thì ở đâu Quang Dũng nói về tiếng khóc của thiên nhiên. Đây chính là khúc tráng ca anh hung tử sĩ, một nghi thức tiễn đưa rất thiêng liêng. Không phải là tiếng khóc của con người mà là tiếng khóc của thiên nhiên, những già mà các anh đã làm mãi trường tồn.
Những người lính Tây tiến biết rằng ra đi sẽ chẳng ngày về, sẽ phải đối diện với con đường thăm thẳm, chia phôi nhưng vẫn đi vì tổ quốc cần họ.
Quang Dũng đã viết về người lính tây tiến với tất cả nỗi nhớ, niềm thương, sự ngưỡng mộ, sự tự hào xen lẫn niềm xót xa tiếc nuối. Nhà thơ viết bằng bút pháp hiện thực và lãng mạn nhưng nghiêng nhiều về lãng mạn. Bài thơ độc đáo trong việc xây dựng hình ảnh, gieo vần, phối thanh, ngắt nhịp. Tất cả đã làm sống lại trong lòng người đọc một thời kỳ không thể nào quên của dân tộc. Đọc Tây tiến ta sẽ thấu hiểu hơn vẻ đẹp của những người lính chống pháp, hiểu hơn về đất nước ta một thời kỳ trận mạc, hiểu hơn giá trị của hòa bình của sự mất mát hi sinh để ta trân trọng hơn những ngày tháng được sống trong độc lập, tự do hôm nay.
Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng – Bài làm 2
Quang Dũng tên thật là Bùi Đình Diệm (tên thường gọi là Dậu), sinh năm 1921 tại làng Phượng Trì, tổng Đại Hoàng (tục gọi là tổng Phùng), huyện Đan Phượng, Hà Đông (nay thuộc Hà Nội).
Tốt nghiệp trường Sư phạm nhưng Quang Dũng không đi dạy học mà theo anh em đàn hát cho một gánh hát ở Hà Nội. Quang Dũng có nhiều năng khiếu về thơ ca, nhạc, họa và tính tình rất hào hoa. ông tham gia cuộc khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân ngày 19-8-1945. Cuối xuân 1947, sau khi học lớp bổ túc quân sự ở Sơn Tây, Quang Dũng từ giã vợ trẻ, con thơ để gia nhập đoàn quân Tây Tiến và được đề bạt chức vụ Đại đội trưởng.
Sau thời gian chiến đấu ở biên giới Việt – Lào, ông được điều về làm trưởng ban văn nghệ Phòng chính trị Bộ Tư lệnh Liên khu III. Hòa bình lập lại, ông là biên tập viên Nhà xuất bản Văn học. Ông mất năm 1988 vì bệnh tật. Năm 2001, Quang Dũng được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
Quang Dũng đã sống một cuộc đời vô cùng sôi nổi, ông đi nhiều, viết nhiều. Các tác phẩm thể hiện cá tính và phong cách nghệ sĩ độc đáo của ông. Một số tác phẩm đã được xuất bản và giới thiệu ở nước ngoài.
Bài thơ Tây Tiến ra đời trong những tháng năm không thể nào quên của đất nước và cuộc đời Quang Dũng. Tây Tiến là tên một đơn vị bộ đội được thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với lực lượng vũ trang Lào bảo vệ biên giới và đánh tiêu hao quân Pháp ở vùng Thượng Lào và Tây Bắc Việt Nam. Các chiến sĩ trong đơn vị đa số là thanh niên Hà Nội, gồm đủ các thành phần trí thức, học sinh, thợ thuyền… Họ sống và gắn bó với nhau nơi rừng sâu nước độc. Đói rét, bệnh tật liên miên, kẻ thù cùng với cái chết luôn rình rập, đe dọa ; song tất cả vẫn hào hứng dấn thân vào cuộc chiến tranh cứu nước.
Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Trong Đại hội toàn quân Liên khu III tổ chức tại làng Phù Lưu Chanh (thuộc tỉnh Hà Đông cũ), nhớ đơn vị, ông đã xúc động viết nên bài thơ Nhớ Tây Tiến và đọc trước Đại hội, được hoan nghênh nhiệt liệt. Các chiến sĩ đã chuyền tay nhau chép và học thuộc. Có thể nói Quang Dũng đã gia nhập làng thơ Việt Nam từ bài thơ này. Đặt bài thơ vào đúng hoàn cảnh ra đời và tưởng tượng lại không khí buổi đầu kháng chiến thì chúng ta mới thấy hết giá trị của nó. Hơn nửa thế kỉ đã qua mà bài thơ vẫn còn truyền lại nguyên vẹn tình cảm nồng nhiệt của lớp người ra trận thời ấy.
Thông qua nỗi nhớ về một miền đất dữ dội và một quãng đời chiến đấu gian khổ cùng đồng đội sống chết có nhau, bài thơ dã ghi lại hào khí lãng mạn của tuổi trẻ Việt Nam trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp.
Bài thơ Tây Tiến có hai đặc điểm nổi bật: cảm hứng lãng mạn và tính chất bi tráng, cảm hứng lãng mạn thể hiện ở “cái tôi” tràn đầy cảm xúc và trí tưởng tượng bay bổng của nhà thơ ; ở sự ca ngợi lí tưởng cao cả, lòng yêu nước thiết tha và tinh thần sẵn sàng hi sinh bảo vệ Tổ quốc của chiến sĩ ta. Tác giả đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật cường điệu, đối lập để tô đậm tính chất phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về sự hùng vĩ, dữ dội của thiên nhiên và hình ảnh kiên cường, anh dũng của đoàn quân Tây Tiến.
Trong bài thơ Tây Tiến, tác giả không hề có ý định che giấu cái bi bởi bi mà không lụy. Cái bi được thể hiện bằng giọng điệu, âm hưởng hào hùng. Chất lãng mạn hòa hợp với chất bi tráng tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ.
Có thể chia bài thơ thành bốn đoạn như sau:
Đoạn 1 (14 câu đầu): Qua nỗi nhớ da diết của tác giả, hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hiện ra trong những cuộc hành quân gian khổ trên cái nền của thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, dữ dội.
Đoạn 2 (từ câu 15 đến câu 22) : Những kỉ niệm tuyệt đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và vẻ đẹp thơ mộng của núi rừng.
Đoạn 3 (từ câu 23 đến câu 30): Khắc họa chân dung người lính Tây Tiến và sự hi sinh bi tráng của họ.
Đoạn 4 (4 câu cuối) : Xa đơn vị, nhà thơ gửi nỗi nhớ thương và tình cảm gắn bó sâu sắc tới đoàn quân Tây Tiến và biên giới miền Tây Tổ quốc.
Liên kết giữa các đoạn thơ là mạch cảm xúc dạt dào tuôn chảy trong tâm tưởng nhà thơ. Bài thơ được viết trong nỗi nhớ da diết, cháy bỏng của Quang Dũng về đồng đội, về những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến gắn liền với khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, thơ mộng. Bài thơ là hồi ức của Quang Dũng về Tây Tiến. Những kỉ niệm tự nhiên hiện lên, kỉ niệm này khơi dậy kỉ niệm khác, giống như những đợt sóng nối tiếp nhau. Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng đã làm cho những kỉ niệm vui buồn trở nên sống động, khiến người đọc có cảm tưởng đang cùng nhà thơ đắm mình trong dòng hồi tưởng.
Mở đầu bài thơ là tiếng gọi thiết tha như bật thốt tự đáy lòng:
Sống Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vợi
Nhớ chơi vơi là nỗi nhớ cồn cào, ám ảnh. Nhớ Tây Tiến là nhớ sông Mã, nhớ quãng đời đầy ắp kỉ niệm khó phai. Nay xa nó, tác giả cảm thấy nỗi trống vắng, hụt hẫng hiện lên trong lòng không gì khỏa lấp được. Âm hưởng câu thơ ngân dài, lan tỏa bởi vần ơi lặp lại tới ba lần, như tiếng vọng vào vách đá, vang xa, xa mãi. Tiếng gọi Tây Tiến ơi tha thiết như tiếng gọi người thân yêu. Sau tiếng gọi ấy, bao nhiêu hình ảnh của quãng đời chiến đấu gian khổ đã qua hiện lên trong tâm tưởng nhà thơ như những thước phim quay chậm:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Bài thơ được làm theo loại cổ phong bảy chữ thể hành với sự chuyển đổi linh hoạt về nhịp điệu nên rất giàu khả năng biểu đạt. Trong đoạn thơ này, cảnh rừng núi miền Tây hiện ra thật sinh động dưới ngòi bút tả thực sắc sảo của nhà thơ. Quy luật miêu tả ở đây có cận cảnh, viễn cảnh, có hiện thực và hư ảo. Đoạn thơ là một thế giới của quá khứ chưa xa hiện lên lung linh trong nỗi nhớ với nét đẹp dữ dội, hoang sơ xen lẫn vẻ tươi mát, thơ mộng của thiên nhiên.
Nhớ Tây Tiến là nhớ về rừng núi, nơi đây rừng tiếp rừng, núi tiếp núi, gây ấn tượng sâu đậm trong tâm trí người đi xa. Rừng núi với những dốc cao vời vợi lẫn vào trong sương mù. Sương che lấp bóng dáng đoàn chiến sĩ đang hành quân vượt dốc: Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi. Những làng bản xa xa thấp thoáng trong màn sương: Mường Lát hoa về trong đêm hơi. Câu thơ: Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm có tới năm thanh trắc, đặc tả đường hành quân vất vả, khó nhọc của đoàn quân Tây Tiến qua dốc qua đèo, lúc lên thì khúc khuỷu, gập ghềnh, lúc xuống thì thăm thẳm như dẫn xuống vực sâu. Đỉnh núi cao ngất bốn mùa mây phủ. Leo lên đến đỉnh, đầu chiến sĩ ta chạm trời cao và mũi súng dường như cũng ngửi trời. Cụ thể hóa độ cao đáng sợ ấy là hình ảnh đối sánh: Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống vẽ ra hai chặng đường hành quân. Hết lên lại xuống, xuống lại lên, dốc nối dốc, đèo nối đèo, trập trùng, hiểm trở.
Tất cả đều là những thử thách ghê gớm, đáng sợ. Tuy thế, đoàn quân nhỏ bé vẫn ngày qua ngày đối mặt với thiên nhiên, nhẫn nại xuyên rừng mở lối, tiến về phía trước. Uy lực thiên nhiên bị giảm xuống và ý chí con người được nâng lên cao hẳn. Nhạc điệu trong từng câu và trong cả đoạn chuyển đổi hết sức linh hoạt, lúc gập ghềnh, trúc trắc, dồn nén, lúc lại dàn trải, êm đềm, ngân nga: Bắt đầu là Dốc lên / khúc khuỷu / dốc / thăm thẳm (5 thanh trắc) rồi đến Nhà ai / Pha Luông / mưa / xa khơi (7 thanh bằng) khiến cho người đọc có cảm giác như đang ở trạng thái căng thẳng tột cùng bỗng được trở về với sự cân bằng, yên tĩnh của tâm hồn.
Ở đoạn này, ngốn ngữ thơ Quang Dũng là thứ ngốn ngữ đa thanh, đa nghĩa, giàu tính hình tượng. Tác giả có những sáng tạo độc đáo, mới lạ. Nói về độ cao mà lại dùng tính từ chỉ độ sâu: Heo hút cồn mây. Núi cao tưởng chừng chạm tới trời, mây nổi thành từng cồn. Đặc biệt thành công là hình ảnh súng ngửi trời. Nó làm tăng thêm độ cao đáng sợ của núi non như ngạo nghễ thách thức con người, đồng thời khẳng định tư thế, tầm vóc hiên ngang sánh với trời đất của chiến sĩ ta. Có một chút ngang tàng, hóm hỉnh trong hình ảnh ấy. Người lính trèo lên những ngọn núi cao, tưởng như đang đi trong mây, mũi súng chạm tới đỉnh trời. Câu: Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống như bẻ làm đôi, diễn tả dốc núi vút lên rồi đổ xuống gần như thẳng đứng, nhìn lên thì cao chót vót, nhìn xuống thì sâu thăm thẳm. Câu thơ: Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi giúp người đọc hình dung ra cảnh những người lính tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ra xa qua một không gian mịt mùng sương rừng, mưa núi, thấy thấp thoáng những ngôi nhà như đang bồng bềnh trôi giữa biển mây.
Bốn câu thơ phối hợp với nhau, tạo nên một âm hưởng đặc biệt. Sau ba câu thơ được vẽ bằng những nét gân guốc, câu thứ tư được vẽ bằng một nét bút mềm mại. Quy luật này cũng giống như cách sử dụng màu sắc trong hội họa: giữa những gam màu nóng, tác giả sử dụng một gam màu lạnh làm dịu cả bức tranh. Đoạn thơ hàm chứa ý nghĩa : cuộc chiến đấu chống ngoại xâm của quân dân ta gian nan tột bực mà cũng hào hùng tột bực.
Tác giả nêu hàng loạt địa danh của vùng biên giới phía Tây với dụng ý tạo sự liên tưởng mạnh cho người đọc: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch… Toàn là những cái tên chỉ mới nghe qua đã gợi liên tưởng đến vùng đất hoang dã, bí hiểm và xa lạ. Nó hoàn toàn khác hẳn với thôn Đông, thôn Đoài, xóm Thượng, xóm Hạ… quen thuộc, hiền lành xưa nay. Nó gợi trí tò mò và háo hức tìm hiểu của người đọc đối với những nơi heo hút, thâm sâu cùng cốc, ma thiêng nước độc – những chuyện đường rừng làm toát mồ hôi lạnh. Đây cũng là nét mới lạ của bài thơ Tây Tiên.
Những cuộc hành quân liên miên trong hoàn cảnh gian khổ, khắc nghiệt khiến chiến sĩ ta kiệt sức và không ít người đã ngã xuống trên đường hành quân. Ngòi bút của Quang Dũng không bỏ qua hiện thực khốc liệt ấy:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Trong cuộc hành quân, chiến sĩ ta cứ đi, cứ đi cho tới khi nào kiệt sức tàn hơi thì không bước nữa và Gục lên súng mũ bỏ quên đời. Bỏ quên đời chứ không phải là chết. Nhẹ nhàng lắm, thanh thản lắm! Mạng sống con người là cái đáng quý nhất, ấy thế mà chiến sĩ ta bỏ quên đời như bỏ quên vật gì tầm thường vậy. Cái chết đến nhẹ nhàng như một cơn buồn ngủ. Mệt quá thì chợt thiếp rồi đi luôn, không một lời trăng trối. Con người không khuất phục trước gian nan, thử thách; có chết cũng chết trên đường hành quân tới đích. Đây cũng là một nét kiêu hùng của người lính Tây Tiến.
Có thể hiểu câu thơ tả thực những người lính kiệt sức, gục ngã trên đường hành quân; nhưng cũng có ý kiến cho rằng đây chỉ là hình ảnh về sự mệt mỏi với những giây phút bất chợt thiếp đi của người lính giữa các chặng đường hành quân. Dù hiểu cách nào thì câu thơ cũng phân ánh mức độ gian nạn, vất vả tưởng chừng khó vượt qua. Tuy nhiên giọng điệu và từ ngữ ở hai câu thơ này dù thoáng chút xót xa, ngậm ngùi nhưng vẫn có cái cứng cỏi, ngang tàng rất lính.
Thiên nhiên hùng vĩ, hoang dã đầy đe dọa với núi cao, vực thẳm, thác gầm, thú dữ… tưởng chừng như nuốt chửng, đè bẹp những ai muốn đối đầu với nó:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Vẻ hoang sơ, dữ dội, chứa đầy bí ẩn của núi rừng miền Tây được nhà thơ tiếp tục khai thác không chỉ theo chiều không gian mà còn được khám phá ở chiều thời gian. Nó luôn luôn là mối nguy hiểm đáng sợ đối với con người.
Hai câu cuối đoạn: Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói, Mai Châu mùa em thơm nếp xôi gợi cảm giác tươi mát, ngọt ngào về cuộc sống thanh bình thoáng bắt gặp trên đường hành quân. Bát xôi nóng bốc hơi nghi ngút thơm mùi nếp mới Mai Châu, được nhận từ tay em trao đã làm ấm lòng chiến sĩ và trở thành một kỉ niệm đẹp trong kí ức nhà thơ. Mùa em là từ sáng tạo hoàn toàn của Quang Dũng, nó làm cho câu thơ uyển chuyển, mềm mại và ấm áp thêm nhiều.
Nhớ Tây Tiến, nhà thơ không chỉ nhớ tới cái khốc liệt, dữ dội mà nhớ cả những nét đẹp đẽ, tươi mát, thân thương của con người và thiên nhiên miền Tây:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Đoạn thơ lung linh, rộn rã với đuốc, hoa, với nếp xiêm áo dịu dàng của các cô gái vùng cao dang uốn lượn theo tiếng Khèn dìu dặt, bổng trầm như mang hồn rừng sâu núi thẳm : khèn man điệu. Câu thơ Kìa em xiêm áo tự bao giờ như một tiếng reo vui đầy ngạc nhiên, thích thú. Những đêm liên hoan văn nghệ thắm thiết tình quân dân cá nước dã làm giảm đi cái chất gian khổ của đời lính, đem lại niềm vui, niềm tin cho tuổi trẻ.
Xa Tây Tiến, nhà thơ không bao giờ quên những nét đặc trưng của cảnh, của người. Những chiều sương bảng lảng hoàng hôn, bạt ngàn sắc trắng hoa lau, những ngọn lau phơ phất như bàn tay vẫy gọi dáng người trên độc mộc (độc mộc là loại thuyền được đẽo từ một thân cây lớn, loại phương tiện di chuyển rất thích hợp với sông suối vùng cao lắm thác ghềnh), những bông hoa rừng đong đưa bên dòng nước lũ…
Ở đoạn này, bốn câu thơ đầu ngân nga như tiếng hát, tiếng nhạc cất lên từ tâm hồn ngây ngất say mê của người lính Tây Tiến, bốn câu thơ sau là cảnh Châu Mộc với vẻ đẹp thơ mộng, mơ màng trong chiều sương được vẽ bằng nét bút tài hoa của Quang Dũng.
Phải yêu mến cảnh vật đến say mê thì nhà thơ mới có cách cảm nhận và nhớ nhung sâu sắc như vậy. Thiên nhiên, con người miền biên giới phía Tây không còn xa lạ nữa mà trở nên thân thuộc, bình dị và đượm hồn kháng chiến.
Nếu ở đoạn một, nhà thơ nói tới cái hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của núi rừng thì đến đoạn hai tác giả lại tập trung thể hiện nét duyên dáng, thơ mộng của con người và cảnh vật. Ở đoạn ba, hình ảnh những người lính Tây Tiến hiện lên với vẻ đẹp lạ lùng:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Bài thơ làm sống dậy hình ảnh của một đoàn quân Vệ quốc. Bước chân họ in trên khắp các nẻo đường đất nước. Họ tình nguyện dấn thân vào cuộc kháng chiến. Gian khổ lắm lúc vượt quá sức chịu đựng của những chàng trai Thủ đô mới từ giã mái trường, góc phố.
Cách tả cảnh của Quang Dũng đã lạ, cách tả người lại càng lạ: Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc, Quân xanh màu lá dữ oai hùm. Không ít ý kiến bàn luận về hình ảnh này, khen có, chê có. Hình ảnh người chiến sĩ ở đây quả cũng có nét kì dị, khác thường song phải ghi nhận rằng đó là sự thật – một sự thật trần trụi và khắc khổ về người lính chiến thời ấy. Họ sống và chiến đấu nơi rừng sâu núi thẳm, thiếu ăn, thiếu thuốc, sốt rét liên miên đến rụng tóc, trọc đầu. Quang Dũng chỉ phản ánh lại hiện thực chứ không hề cường điệu. Ẩn chứa trong cái vẻ ngoài kì dị ấy là một phẩm chất vô cùng đẹp đẽ, kiêu hùng của anh bộ đội Cụ Hồ.
Hình ảnh đoàn binh không mọc tóc chẳng xa lạ gì với những anh “Vệ trọc” thời kì đầu kháng chiến. Cạo bỏ mái tóc xanh đi, để đầu trọc cho gọn, tiện, thích hợp với đời sống chiến đấu – đồng thời đây cũng là một cách bày tỏ quyết tâm đánh giặc.
Quân xanh màu lá đặc tả một chi tiết thực là màu da của các chiến sĩ Tây Tiến xanh xao vì đói ăn, vì sốt rét rừng, vì trăm ngàn gian khổ khác, thế nhưng họ vẫn bừng bừng khí thế dữ oai hùm khiến kẻ thù phải khiếp sợ. Đấy mới là nét nổi bật của đoàn quân toát ra từ hình thức không lấy gì làm đẹp. Phải chăng ở đây, tác giả cố ý lấy cái xấu làm nền để tôn thêm cái đẹp như các nhà thơ xưa đã từng làm?
Trong đoạn thơ, chất bi tráng, hào hùng hòa quyện với nhau, tạo nên không khí rất riêng của Tây Tiến và cũng rất chung của thời kì đầu nhân dân ta đánh giặc Pháp với hai bàn tay trắng.
Quyết tâm giết giặc, gian khổ đói rét không làm giảm chất lãng mạn vốn có trong từng chiến sĩ. Giữa những cuộc hành quân, chiến đấu, họ vẫn dành riêng cho mình dăm ba phút để nhớ về quê hương, nhớ về những bóng dáng thân yêu: Mắt trừng gửi mộng qua biên giới, Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Mắt trừng là mắt quắc lên vẻ dữ tợn, đe dọa ; gửi mộng là mộng ước giết giặc, quyết tâm giết giặc. Dữ dội như vậy nhưng vẫn không vơi lãng mạn : Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm (kiều thơm: ý chỉ người con gái đẹp).
Có lẽ ở thời ấy, không mấy chàng trai Thủ đô ra trận lại không mang theo trong tim bóng dáng một “nàng Kiều”. Hà Nội với dáng kiều thơm là quá khứ thơ mộng, đẹp đẽ, là hành trang không thể thiếu của mỗi anh lính mới xa nhà để lên đường tham gia kháng chiến. Nhớ để mà vui, mà tin, mà thêm sức mạnh chứ không phải để thối chí, nản lòng. Nét đẹp tâm hồn này bổ sung và làm phong phú thêm vẻ đẹp chung của chiến sĩ Tây Tiến.
Quang Dũng đã tạc nên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến không chỉ bằng những đường nét khắc họa dáng vẻ bên ngoài mà còn thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ qua những câu thơ đậm đà chất trữ tình.
Đã có nhiều bài thơ kháng chiến viết về sự hi sinh của người lính nhưng Tây Tiến là một trong số ít bài thơ nói về điều đó một cách thấm thìa bằng cảm hứng bi tráng :
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sống Mã gầm lên khúc độc hành.
Nếu tách riêng câu Rải rác biên cương mồ viễn xứ ra khỏi đoạn thì câu thơ như một bức tranh với màu sắc ảm đạm, u uất. Song, nếu tìm hiểu kĩ nó trong mối quan hệ nội tại chung với các câu thơ trong đoạn thì ý nghĩa của nó lại khác. Nó có sức gợi rất lớn: Rải rác nơi biên cương là những nấm mổ viễn xứ (mồ của những kẻ chết xa quê), không một vòng hoa, một nén hương tưởng niệm. Lạnh lẽo và thê lương lắm chứ! Nhưng chiến sĩ ta ngay từ lúc bước chân ra đi đã sẵn sàng chấp nhận cái chết như vậy. Câu thơ đó làm nền cho những câu tiếp theo:
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Đời xanh là tuổi trẻ với bao nhiêu hoa mộng. Đẹp là thế, hứa hẹn nhiều là thế nhưng các chiến sĩ ta chẳng tiếc mà nhiệt thành hiến dâng cho Tổ quốc. Hỏi có sự hi sinh nào cao quý hơn, đáng ca ngợi hơn ?
Phảng phất đâu đây chí khí của Tráng sĩ một đi không trở lại, của bậc trượng phu Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao. Ý thơ cũ nhưng cái tình thì lại rất mới, rất thật. Những ngày đầu kháng chiến, bao thanh niên học sinh xếp bút nghiên lên đường chiến đấu chống xâm lăng, bảo vệ đất nước. Một trong những động cơ thôi thúc họ là hình ảnh người anh hùng da ngựa bọc thây chốn sa trường mà họ tiếp thu được qua văn chương. Họ hăm hở lên đường chiến đấu với nhiệt tình cháy bỏng và một đam mê trong sáng pha chút lãng mạn.
Ngày xưa, người tráng sĩ chọn cái chết hiên ngang nơi trận mạc với da ngựa bọc thây và coi đó là vinh quang tột đỉnh, còn chiến sĩ Tây Tiến thì; Áo bào / thay chiếu / anh / về / đất. Nhịp điệu câu thơ chậm rãi và trang trọng. Một chi tiết rất thực được nhắc đến trong câu thơ thấp thoáng phong vị cổ này là hình ảnh áo bào thay chiếu, tức là lấy chiếu thay cho áo bào để khâm liệm các chiến sĩ hi sinh. Xuất phát từ chuyện có thật do chính tác giả kể lại là trước lúc hành quân sang đất bạn, nhân dân địa phương nơi trú quân tặng chiến sĩ ta mỗi người một chiếc chiếu cá nhân. Sống thì nằm, chết dùng để liệm. Nhất cử lưỡng tiện. Hình ảnh đẹp đẽ, rực rỡ của chiếc chiến bào trong câu: Áo chàng đỏ tựa ráng pha (Chinh phụ ngâm) giờ được thay bằng chiếc chiếu. Sơ sài thế, tầm thường thế mà vẫn sang trọng, oai vệ như tấm áo bào của các chiến tướng thuở nào. Thay từ chết bằng từ về đất, cách nói này làm giảm nhẹ sự mất mát, đau thương. Bao ý nghĩa lớn lao hàm chứa trong hai từ giản dị, mộc mạc đó. Thanh thản biết mấy là cái chết của những người đã làm xong nghĩa lớn đối với quê hương xứ sở. Anh về đất là hóa thân vào non sống đất nước. Cái chết của các anh trở thành bất tử. Đồng đội, đồng bào, non sông đất nước mãi mãi yêu thương trân trọng và nhớ ơn các anh :
Sống Mã gầm lên khúc độc hành.
Người ngã xuống âm thầm, lặng lẽ về với đất. Riêng dòng sông Mã vẫn cất cao khúc độc hành (khúc hát của người đi xa một mình) bằng cái giọng thác ghềnh của nó. Tiếng hát hùng tráng, dữ dội của dòng sống cũng chính là tiếng lòng, là quyết tâm của chiến sĩ ta.
Đoạn thơ thấm đẫm chất bi tráng. Tác giả có nhắc tới mất mát mà không đau thương, bi lụy bởi đã dùng cái bi để làm bật lên cái tráng.
Xuyên suốt bài thơ là tình cảm, là trách nhiệm công dân của người chiến sĩ trước vận mệnh đất nước. Tự nguyện dấn thân, chấp nhận gian khổ, hi sinh… là những nét nổi bật trong phẩm chất chiến sĩ ta.
Ở khổ thơ cuối bài, Quang Dũng khẳng định thêm một lần nữa cái chí nam nhi rất đáng quý đó:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường đi thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nưa chẳng về xuôi.
Đã ra đi là không ước hẹn ngày về, đã ra đi là quyết tâm tới đích. Cái tinh thần “một đi không trở lại ” thấm nhuần trong tư tưởng và tình cảm của cả đoàn quân Tây Tiến. Không vấn vương, bịn rịn chuyện riêng tư, tất cả cho nhiệm vụ cứu nước. Xác định dứt khoát đến quyết liệt như thế thì mọi chuyện gian khổ hi sinh đều trở nên nhẹ nhàng đối với mọi người. Tây Tiến mùa xuân ấy đã trở thành thời điểm có một không hai. Lịch sử dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại cái thời thơ mộng, lãng mạn hào hùng đến nhường ấy trong một hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy. Tinh thần ấy cho đến nay vẫn là bài học nhân sinh thiết thực và bổ ích cho mọi người.
Tây Tiến là cuộc sống, là tấm lòng, là cảm xúc chân thành của Quang Dũng. Bài thơ có nhạc, có họa. Bên cạnh cái dữ dội là cái tươi mát, bên cạnh cái bi thương là cái hào hùng. Tây Tiến là một phần bức tranh hoành tráng về cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ và vĩ đại của dân tộc ta. Tây Tiến là cột mốc quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của Quang Dũng. Nhắc đến nhà thơ, người đọc nhớ ngay đến bài thơ Tây Tiến và ngược lại. Thơ Quang Dũng nói với chúng ta về cái thật, cái đẹp và cái tốt của cuộc đời ; vì thế mà nó sống mãi với thời gian.
Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng – Bài làm 3
Quang Dũng là một người nghệ sĩ đa tài, ông không chỉ đàn giỏi mà ông còn là một nhà thơ trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Tên tuổi của Quang Dũng gắn liền với bài thơ Tây Tiến. Trước Tây Tiến Quang Dũng đã làm thơ và cũn có những bài thơ khá hay nhưng chỉ đến Tây Tiến nhà thơ mới ghi được dấu ấn trong mắt người đọc với phong cách thơ hồn hậu, trẻ trung. Bài thơ Tây Tiến thể hiện nỗi nhớ của Quang Dũng về đơn vị cũ của mình. Bài được in trong tập Mây đầu ô.
Trước hết là bốn câu thở đầu tác giả mở ra một không gian của Tây Tiến xưa kia. Những hình ảnh mang đầy những nỗi nhớ thương được nhà thơ nén vào từng câu thơ ấy:
“Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Không gian của con sông Mã hiện lên mang đầy những nỗi nhớ. Nỗi nhớ ấy chính là nỗi nhớ về một thời đã xa bên đơn vị Tây Tiến của nhà thơ. Những tiếng gọi tha thiết thân thương được cất lên vô cùng da diết. Không chỉ là không gian sông mã mà còn là không gian của những cánh rừng. Có thể nói hình ảnh đoàn quân Tây Tiến được in dấu trên những góc suối nẻo rừng. Tất cả những không gian ấy đều in dấu bước chân của họ và khi nhớ về nó nhà thơ nhớ hết cả. Từ “ơi” ở câu thứ nhất hiệp vần với từ “chơi vơi” ở câu thứ hai mang đến sự vang dội. Ta cảm tưởng rằng nỗi nhớ kia như dội vào không gian vọng về thời gian của những năm tháng chiến đấu kiên cường kia. Vần “ơi” mở rộng như càng thể hiện được sự da diết trong nỗi nhớ ấy. Hai địa điểm đầu tiên được nhà thơ nhắc đến là Sài Khao và Mường Lát. Người chiến sĩ Tây Tiến ra đi từ lúc sương vẫn còn giăng mắc trên những cảnh vật và khi về thì đêm đã lên hơi rồi. Cái từ “hơi” ấy cảm giác như nhẹ nhàng lắm. Phải chăng khi cái mệt mỏi kia khi về nghỉ lại cảm thấy nhẹ nhàng sau một ngày hành quân vậy. tác giả không nói hoa nở mà nói hoa về, không viết đêm sương mà lai viết đêm hơi. Như thế là nhà thơ đã chuyển từ thế giới thực sang thế giới ảo. Hình ảnh hoa kia không chỉ là hoa mà hình như còn là hình bóng của con người, hay có thể còn là ngọn đuốc của các anh chiến sĩ Tây Tiến.
Đến những câu thơ tiếp theo nhà thơ tiếp tục thể hiện nỗi nhớ của mình qua hình ảnh những cuộc hành quân của đoàn quân Tây tiến. Đó là tất cả sự gian nan khó khăn trên con đường hành quân ấy:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Những vần trắc chiếm hơn nữa số từ trong những câu thơ cho thấy sự gian nan khúc khuỷu của đường hành quân. Vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ hiện lên làm nổi bật ý chí bất khuất của con người. Núi kia có cao nhưng không cao hơn ngọn súng của các đồng chí. Hàng ngày họ phải leo lên rồi lại leo xuống không biết bao nhiêu là núi. Hình ảnh cây súng chắc trong tay chĩa lên cao súng dường như đang chạm đến tận trời. Hình ảnh súng ngửi trời thật đẹp nó thể hiện ý chí kiên cường vượt qua khó khăn của người chiến sĩ. Ngàn thước lên cao rồi lại ngàn thước xuống hiểm trở vô cùng. Những từ “thăm thẳm”, “ khúc khuỷu” thể hiện sự hùng vĩ hiểm trở của núi rừng tây Bắc. Không những thế nhà thơ ngắt nhịp câu thơ 4/3 thể hiện được tâm trạng của nhà thơ như bẻ gãy làm đôi, sự đối lập trong cùng một câu thơ đã lột tả hết con đường mà những chiến sĩ tây Tiến phải đi qua. Không những thế câu thơ thứ tư nhà thơ lại kết cấu toàn những vần bằng. Có thể nói ở trên trúc trắc đến đâu thì ở dưới lại nhẹ nhàng đến đấy. Câu thơ như thể hiện tâm trạng thoải mái nhẹ nhõm của những người chiến sĩ Tây Tiến sau những giờ khắc gian nan trên những dốc những đèo tây Bắc. Những hạt mưa xa kia cảm tưởng như sương muối bồng bềnh. Có thể nói đây chính là những câu thơ tuyệt bút trong bài thơ Tây Tiến.
Sáu câu thơ tiếp theo Quang Dũng thể hiện chặng đường gian nan của đoàn quân Tây Tiến có những chiến sĩ đã ngã xuống, Thiên nhiên Tây Bắc hiện lên trong những sự dữ dội của thú rừng:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu màu em thơm nếp xôi”
Hình ảnh những người chiến sĩ ngã xuống được nhà thơ nói giảm nói tránh là dãi dầu không bước nữa. Súng mũ ở đó anh gục lên mà bỏ quên đời. Đó là sự hi sinh thế nhưng với sự hồn hậu lãng mạn của mình nhà thơ nói giảm nó đi để không thấy nhiều sự hi sinh mất mát. Thiên nhiên Tây bắc lại hiện lên với những hình ảnh của buổi chiều những con thú dữ gầm thét, đêm đến thì cọp lại chêu người. Nhà thơ nói cọp chêu người cũng làm cho chúng ta sự chêu đùa của nhà thơ. Câu thơ như dí dỏm hơn thể hiện sự dữ dội của thiên nhiên nhưng không quá khắc nghiệt. Trước nhưng nỗi nhớ ấy nhà thơ lại cất lên nỗi nhớ Tây Tiến với Mai Châu thắm đẫm tình quân dân với thơm nếp xôi và cơm lên khói. Nhà thơ không dùng chữ ơi để thể hiện nữa mà lại là nhớ ôi. Điều đó cho thấy nhà thơ đang nuối tiếc một thời đã qua.
Đến những câu thơ tiếp theo tình quân dân keo sơn gắn bó được Quang Dũng nhắc đến nỗi nhớ của mình:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Sau những cuộc hành quân gian nan vất vả những người Tây Tiến lại được sống trong tình quân dân thăm thiết chân tình. Những hội đuốc hoa được tổ chức cho những người chiến sĩ. Lúc ấy những cô gái Lào mang trên mình những bộ quần áo màu sắc rực rỡ khèn lên điệu nhạc thì nàng cũng e ấp múa. Niềm vui ấy giống như những món quà dành cho những người chiến sĩ. Những ngọn đuốc hoa lên đèn sáng bưng cả một khoảng không gian những người chiến sĩ ngồi quây quần bên đồng lửa vỗ tay theo điệu khèn và ngắm những cô gái Lào nhày múa.
Cuộc vui thì bao giờ cũng phải chia tay, quy luật của cuộc sống ở thê mà ở đây chiến sĩ Tây Tiến nghỉ ngơi rồi thì cũng phải đi hành quân tiếp. Và khi rời đi cảnh tượng chia tay diễn ra ở đây thật sự rất quyến luyến:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có thấy dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Một cảnh tượng quyến luyến chia tay. Sau những niềm vui ấy chiều hôm đó những người chiến sĩ Tây Tiến lại lên đường. Người dân thể hiện sự quyến luyến với những người chiến sĩ ấy khi chia tay bịn rịn khó tả. Đến cảnh vật nơi đây cũng nhuốm màu tâm trạng chia ly. Lau như có hồn để nẻo về bến bờ. Dáng người dân trên con thuyền độc mộc mà đưa cành tay vẫy chào những người chiến sĩ ấy. Dòng nước hoa đong đưa như thể hiện được cái hồn của cảnh vật, sự trôi chảy của thiên nhiên kia chính là sự trôi chảy của thời gian. Cuộc vui hết thì người chiến sĩ cũng phải đi làm nhiệm vụ.
Không chỉ vậy Quang Dũng nhơ đến những hình ảnh của những người chiến sĩ Tây Tiến với chân dung khuôn mặt, ánh mắt:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Có thể nói chân dung người chiến binh Tây tiến hiện lên thật sự rất ốm thế nhưng lại không yếu. Họ không mọc được tóc là do cuộc sống nơi rừng thiêng nước độc rửa chân rung lông gội đầu rụng tóc hay cũng có thể đó chính là kết quả của những trận sốt rét rừng khiến cho chiến binh Tây Tiến rụng hết tóc. Quân xanh màu lá cũng có thể hiểu là màu xanh của trang phục lá cây, hay là sự xanh xao của sự thiểu thốn nơi chiến trường. Thế nhưng họ không yếu mà vẫn giữ oai hùm. Hình ảnh mắt trừng nhơ đến những dáng kiều thơm kia một thời được coi là mông rớt buồn rơi. Mắt trừng là do sự căm thù giặc mong muốn quét sạch bóng quân thù. Đó phải chăng cũng là hình ảnh thể hiện sự thức đêm của chiến binh vì nghĩ đến biên giới. Họ gian nan với cuộc chiến tranh những họ không quên nhớ đến những người thương của mình để được an ủi.
Những câu thơ cuối cùng cất lên thể hiện những lý tưởng và bức tượng đài bi tráng của người chiến binh Tây Tiến:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Bức tượng đài bi tráng của người chiến sĩ được thể hiện qua hình ảnh những nấm mộ rải rác trên biên cương. Không có tên tuổi, không có quê quán chỉ là những nấm lồi lên trên mặt đất mà thôi. Họ thể hiện lý tưởng vì nước của mình. Họ không tiếc đời xanh mà chỉ muốn hết lòng vì đất nước. Khi chết đi may lắm thì cũng chỉ có manh chiếu quấn về với đất chứ không có áo bào nào cả. Cái đẹp của sự bi tráng ấy được thể hiện trang trọng qua hàng loạt các từ Hán Việt trong những câu thơ trên. Con sông Mã như khóc thương cho những người chiến sĩ qua đời, hay là chính giờ đây nó đang chơi vơi một mình nên nó gầm lên vì nhớ Tây Tiến. Những người lên Châu mộc thì đã chấp nhận đương đầu với cái chết cho nền cả khi chết đi hồn cũng về những nơi gắn bó gian nan của tình đồng đội, tình quân dân chứ không về xuôi nữa.
Như vậy nhà thơ nhớ đến đơn vị cũ của mình mà thể hiện nó thành những câu thơ giàu cảm xúc. Không những thế trong những câu thơ ấy còn giàu chất họa chất nhạc khiến cho Tây Bắc hiện lên với nhưng vẻ đẹp và những gian nan hiểm nguy. Đồng thời thể hiện sự hào hùng của một thời bom đạn với đoàn binh tây Tiên ấy. Họ tuy không còn nữa nhưng bức tượng đài mà họ xây lên chắc chắn còn mãi trong những trái tim Việt Nam.
Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng – Bài làm 4
Một bài thơ để lại nhiều cảm xúc cho người đọc bởi nét tài hoa và anh dũng của những người chiến sĩ cách mạng, họ anh dũng luôn kiên cường bất khuất trên mọi chặng đường, hình ảnh đó đã thể hiện cho chúng ta thấy được một tâm hồn giàu lòng yêu thương và tinh thần anh dũng, tác phẩm đó chính là Tây Tiến của Quang Dũng.
Tây tiến là một địa danh mà tác giả đã từng gắn bó cuộc đời của mình để chiến đấu và gian nan vất vả trên từng chặng đường ở đây tác giả đang phải sống những năm tháng nghèo khổ và nguy hiểm nhất. Mở đầu bài thơ tác giả đã thể hiện một nỗi nhớ man mác trong cảm xúc của con người:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài khao sương lấp đoàn quân mỏi
Ở đây tác giả đang thể hiện những nỗi nhớ nhung của mình trong toàn bộ tác phẩm , nỗi nhớ đó đã thể hiện được một cái nhìn sâu sắc, về khung cảnh thiên nhiên nơi đây, hình ảnh sông Mã, tác giả đã từng gắn bó máu thịt của mình tại nơi đây, con người đang phải vượt qua những gian khổ để có được những điều có ý nghĩa và giá trị nhất, nỗi nhớ đang lan tỏa khắp không gian của vùng núi Tây Tiến, tác giả đang thể hiện một cái nhìn mới mẻ và đầy giá trị nhất đối với mỗi con người, trong những năm tháng hành quân chiến đấu, mặc dù đoàn quân mỏi nhưng tinh thần của những người chiến sĩ cách mạng cũng không bao giờ nguôi ngoai, nó thể hiện một tinh thần anh dũng và quyết liệt trước kẻ thù:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộc qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến đang phải trải qua rất nhiều gian khổ, họ mắc phải những cơn sốt rét rừng, rồi thì ngoại hình của họ cũng bị thay đổi khác lạ, hình ảnh đoàn quân Tây Tiến gian nan và vất vả trên mọi chặng đường nó cũng thể hiện một tư tưởng và giá trị nhất trong toàn bộ tác phẩm, hình ảnh đoàn quân không mọc tóc, quân xanh đó là biểu hiện cho màu da, dân ta là truyền thống của dân tộc da vàng, nhưng những người chiến sĩ của ta mắc bệnh, chính vì vậy màu da cũng chuyển sang màu xanh, trước tình hình đó những người chiến sĩ cách mạng không mất đi ý chí, và tình yêu thương quê nhà, đôi mắt vẫn chứa chan đầy tình yêu thương, và hình ảnh những dáng kiều thơm ở Hà Nội.
Trước những hình ảnh đó những người chiến sĩ của ta vẫn luôn kiên cường mặc dù, vất vả và gian nan vẫn đang bao vây lấy cuộc đời của những người chiến sĩ, nhưng tinh thần đó vẫn luôn được đẩy lên cao:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời.
Hình ảnh anh dũng, bỏ qua cuộc sống để sẵn sàng hy sinh và hết mình vì dân tộc, đó là những truyền thống tốt đẹp thể hiện một tinh thần chiến đấu mạnh mẽ, và vô cùng có nhiều ý nghĩa và mang lại cho người đọc nhiều ý nghĩa và cảm quan mới mẻ về cuộc sống:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm mường hịch cọp trêu người
Trước những hình ảnh bí ẩn và chứa chan bao nhiêu sự nguy hiểm đó, con người vẫn luôn cố gắng hết mình để có thể chống chọi trước thiên nhiên, hình ảnh đó đã mang lại cho người đọc một cái nhìn sâu sắc về hình ảnh người chiến sĩ tài hoa, họ đã bỏ quên cuộc đời để luôn phấn đấu hết mình vì dân tộc, đó là những điều đáng khen ngợi và có nhiều ý nghĩa to lớn nhất:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Địa danh mà những người chiến sĩ cách mạng đang chiến đấu cũng vô cùng nguy hiểm, nó thể hiện cho người đọc một cái nhìn sâu sắc, và mang lại nhiều ý nghĩa nhất, hình ảnh đó thể hiện cho người đọc một cái nhìn mới mẻ hơn, về chính nhân vật của mình, mỗi người đều thể hiện được một tinh thần và giá trị cao cho cuộc đời. Luôn luôn phấn đấu vì đất nước những người chiến sĩ của ta luôn giữ vững tay súng để phục vụ cho dân tộc, đây mới chính là những điều đáng khen ngợi.
Hình ảnh người chiến sĩ Tây Tiến thể hiện qua cái nhìn của tác giả với nhiều nét đẹp nó nổi bật và điển hình trong cách nhìn đầy thiện cảm và mang lại cho người đọc cái nhìn sâu sắc nhất, giá trị đó mang lại cho người đọc một tâm hồn luôn biết trân trọng và yêu thương những người chiến sĩ cách mạng.
Hình ảnh của đoàn quân Tây Tiến đã được thể hiện một cách phong phú và giàu có về giá trị nhất, nó để lại cho người đọc nhiều cảm xúc và sự tinh tế khi tiếp nhận tác phẩm dưới nhiều góc độ khác nhau.
Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng – Bài làm 5
"Tây Tiến" là bài thơ của người lính nói về người lính – anh Vệ quốc quân thời 9 năm kháng chiến chống Pháp. Quang Dũng vừa cầm súng đánh giặc vừa làm thơ nên thơ ông rất chân thực và hào sảng, dư ba. Bài thơ được Quang Dũng viết vào năm 1948, khi cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc bước sang năm thứ ba, chặng đường kháng chiến còn đầy thử thách gian lao.
"Tây Tiến" nói lên nỗi nhớ và niềm tự hào của Quang Dũng về đồng đội thân yêu, cùng vào sinh ra tử một thời trận mạc.
Mở đầu bài thơ là một tiếng gọi làm nao lòng người. Nỗi nhớ thương, nỗi nhớ như nén chặt, bỗng trào dâng:
"Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi".
Từ "ơi" bắt vần với từ láy "chơi vơi" làm cho âm điệu câu thơ trở nên tha thiết sâu lắng, bồi hồi. Hai chữ "nhớ" như hai nốt nhấn gợi tả nỗi nhớ "chơi vơi" cháy bỏng khôn nguôi. Từ Phù Lưu Chanh ông nhớ dòng sông Mã, nhớ núi rừng miền Tây, nhớ đoàn binh Tây Tiến – một đơn vị bộ đội đã hoạt động tại vùng rừng núi miền Tây Thanh Hóa, Hòa Bình, Sơn La – biên giới Việt Lào trong những năm đầu kháng chiến. Bao kỉ niệm đẹp một thời chinh chiến bỗng sống dậy. Những tên bản, tên mường của rừng xưa núi cũ yêu thương hiện về, bỗng trở nên gần gũi thân thiết, làm xao xuyến hồn người chiến sĩ:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi".
Những Sài Khao, Mường Lát… những địa danh vời vợi nghìn trùng từng in dấu chân đoàn chiến binh Tây Tiến. Trong ”sương lấp", trong "đêm hơi" mịt mù, lạnh lẽo, đoàn dũng sĩ đã phải vượt qua những nẻo đường hành quân vô cùng gian khổ. Ngày nối ngày, đêm nối đêm, trải qua bao dãi dầu, "đoàn quân mỏi" giữa cái biển sương mù của núi rừng miền Tây; "đoàn quân mỏi" tưởng như bị "lấp" đi, bị trĩu xuống trong mệt mỏi, gian truân, nhưng thật bất ngờ, bỗng xuất hiện "hoa về trong đêm hơi". Cái mỏi mệt, cái gian khổ như đã tiêu tan. Sáu thanh bằng liên tiếp diễn tả cái nhẹ nhàng, cái lâng lâng trong tâm hồn người lính trẻ đi tới đích sau những chặng đường dài hành quân đầy thử thách: "Mường Lát hoa về trong đêm hơi".
Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt giữa núi rừng miền Tây. Những đèo dốc "khúc khuỷu", "thăm thẳm" chưa từng in dấu chân người! Những "cồn mây heo hút". Những tầm cao của núi, những chiều sâu của lũng, của suối thử thách chí can trường như chặn bước tiến của đoàn quân:
"Dốc lên khúc khủyu, dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi".
Các từ láy: "thăm thẳm", "khúc khuỷu", "heo hút" được lựa chọn và sử dụng như những nét khắc, nét vẽ có giá trị tạo hình đặc sắc, làm hiện lên những dốc, những cồn mây mà nhà thơ và đồng đội phải vượt qua trong những tháng ngày: "áo vải chân không đi lùng giặc đánh" (Hồng Nguyên). "Súng ngửi trời" là một hình ảnh nhân hóa phản ánh cái ngộ nghĩnh, hồn nhiên trẻ trung và yêu đời của người lính trẻ. Có câu thơ gồm 2 vế tiểu đối, bản lĩnh kiên cường của người chiến sĩ Tây Tiến được "đo" bằng: "Ngàn thước lên cao // ngàn thước xuống". Núi tiếp núi, đèo nối đèo, hết lên cao, lại xuống thấp, đoàn quân đi trong mù sương, trong màn mưa rừng. Từ những đỉnh cao "ngàn thước", các chiến binh dõi tầm mắt nhìn xa. Những bản mường, những nhà sàn thấp thoáng ẩn hiện. Câu thơ thất ngôn, toàn thanh bằng gợi tả cảm xúc tươi vui, lâng lâng thanh thản dâng lên trong tâm hồn người lính trẻ rất lạc quan yêu đời khi dõi nhìn về xa qua màn mưa rừng: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi".
Những gì đã xảy trên những nẻo đường trường chinh lửa máu và gian khổ ấy? Âm điệu câu thơ bỗng trĩu xuống, nao nao:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!".
Hai tiếng "anh bạn" cất lên như một tiếng khóc thầm. Trong gian khổ "dãi dầu", trong những ngày dài hành quân và chiến đấu, có bao đồng đội thân yêu đã "không bước nữa", vĩnh biệt đoàn binh, "bỏ quên đời", bỏ quên đồng chí bạn bè, nằm lại vĩnh viễn nơi chân đèo, góc núi. Bốn chữ "gục lên súng mũ" thể hiện một sự hi sinh vô cùng bi tráng: ngã xuống, gục xuống trên đường hành quân giữa trận đánh khi súng còn cầm trên tay, mũ còn đội trên đầu. Mặc dù Quang Dũng đã thay thế từ "chết", từ "hi sinh" bằng cụm từ "không bước nữa", "gục lên"…, "bỏ quên đời", nhưng vẫn trào lên bao nỗi xót xa, thương tiếc. Sự thật chiến tranh xưa nay vẫn thế! Có điều là vần thơ của Quang Dũng tuy nói đến cái chết của người lính nhưng không gợi ra bi lụy, thảm thương, mà trái lại, trong sự tiếc thương có niềm tự hào khẳng định: Vì độc lập, tự do mà có biết bao chiến sĩ anh hùng đã ngã xuống trên các chiến trường, trong tư thế lẫm liệt "gục lên súng mũ…" như vậy!
Cảnh tượng chiến trường đâu chỉ có đèo cao, cồn mây, dốc thẳm, đâu chỉ có mưa ngàn, muỗi rừng vắt núi, mà còn có biết bao thử thách của rừng thiêng tự ngàn đời mang cái vẻ hoang sơ và bí mật, hùng vĩ và oai nghiêm. Chiều nối chiều, đêm tiếp đêm, chiến khu vang động tiếng "gầm thét" của thác, của "cọp trêu người". Trên một không gian mênh mông của chốn đại ngàn, từ Pha Luông đến Mường Hịch hoang vu, cái chết đang rình rập đe dọa. Chốn rừng thiêng ẩn dấu nhiều bí mật "oai linh", được nhân hóa như tăng thêm phần dữ dội. Thác thì "gầm thét", cọp thì "trêu người" như để thử thách chí can trường các chiến binh Tây Tiến:
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người".
Vượt lên gian khổ, hi sinh, hành trang người lính đầy ắp những kỉ niệm đẹp của tình quân dân. Quên sao được "cơm lên khói", hương vị đậm đà của "mùa em thơm nếp xôi". Trong cái hương vị đậm đà của bát cơm tỏa khói, của hương nếp xôi còn quyện theo bao tình sâu nghĩa nặng của bà con dân bản Mai Châu, của "mùa em". Hai tiếng "nhớ ôi" gợi lên nhiều bâng khuâng, vương vấn, thấm thía và ngọt ngào:
"Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi".
Phần thứ hai bài "Tây Tiến" gồm có 8 câu nói về "hội đuốc hoa" và những chiều sương cao nguyên Châu Mộc. Giọng thơ man mác, bâng khuâng. Nhà thơ tự hỏi mình "có thấy" và "có nhớ". Chất tài tử, tài hoa và lãng mạn của những chàng lính chiến được nói đến thật hay trong đêm "hội đuốc hoa". Chữ "kìa" là đại từ để trỏ từ xa, gợi nhiều ngạc nhiên, tình tứ. Trong ánh lửa đuốc bập bùng, sự xuất hiện những cô gái Mường, cô gái Thái miền Tây Bắc, những cô gái phù-xao Lào trong bộ xiêm áo dân tộc rực rỡ đã đem đến cho những người lính trẻ đoàn binh Tây Tiến bao niềm vui, tình quân dân thắm thiết. Có tiếng khèn "man điệu" của núi rừng, có khúc nhạc du dương "xây hồn thơ". Có dáng điệu duyên dáng "e ấp" của "nàng", của những "bông hoa rừng" đang múa xòe, đang múa lăm-vông:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ,
Khèn lên man điệu nàng e ấp,
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ".
Chữ "bừng" là một nét vẽ có thần. "Bừng" là sáng bừng lên, cháy rực lên từ những ngọn đuốc trong đêm "hội đuốc hoa". Cũng có nghĩa là tưng bừng rộn ràng qua tiếng khèn "man điệu", qua giọng hát tình tứ, mê say của bài dân ca Thái, dân ca Lào.
Nhớ Tây Tiến là nhớ đến những chiều sương cao nguyên, nhớ đến những con thuyền độc mộc, nhớ đến "hồn lau nẻo bến bờ". Nhớ nhiều, nhớ mãi "dáng người trên độc mộc", nhớ không bao giờ quên hình ảnh nên thơ "Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa". Nếu không sống mạnh mẽ, sống hết mình của đời người lính trẻ một thời trận mạc gian nan thì không thể nào viết được những vần thơ mang hương sắc núi rừng xa lạ, tươi đẹp và thơ mộng như thế. Âm điệu đoạn thơ trầm bổng lâng lâng như đang ru hồn ta vào cõi mộng. Chất nhạc, chất thơ, chất họa toát lên từ vần thơ, cho thấy tính thẩm mĩ độc đáo của ngòi bút thơ Quang Dũng, đồng thời khắc họa vẻ đẹp tâm hồn các chiến sĩ Tây Tiến: trong gian khổ và thử thách, trong gian truân và chết chóc, họ vẫn lạc quan và yêu đời, hồn nhiên và mơ mộng.
Đây là một trong những đoạn thơ hay nhất trong bài "Tây Tiến" đã thể hiện sự cảm nhận và diễn tả tinh tế, tài hoa vẻ đẹp thiên nhiên và tình người, đồng thời lại rất mực hồn nhiên từng làm mê say người đọc:
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ,
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa".
Phần thứ ba, Quang Dũng đã dựng lên một tượng đài hùng vĩ, bi tráng về đoàn binh Tây Tiến. Đoàn quân luồn rừng đi trong biển sương mù, trong những cồn mây, trong màn mưa, vượt qua bao nhiều núi cao, đèo cao, dốc thẳm, "áo vải chân không đi lùng giặc đánh", bỗng bất ngờ xuất hiện:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm".
Đoạn thơ ghi lại một cách chân thật, hào hùng cái khốc liệt dữ dội của chiến tranh, của một dân tộc quật khởi đứng lên dùng giáo mác, gậy tầm vông chống lại sắt thép quân thù. Hình tượng thơ được đặt trong thế tương phản đối lập để khẳng định chí khí hiên ngang, anh hùng, những tâm hồn với bao mộng mơ tuyệt đẹp. "Đoàn binh không mọc tóc", "quân xanh màu lá", có vẻ tiều tụy, ốm đau vì bệnh sốt rét rừng, nhưng tư thế vô cùng oai phong lẫm liệt: "dữ oai hùm". Cũng là một cách nói truyền thống trong thơ ca dân tộc ngợi ca sức mạnh Việt Nam: "Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu" (Phạm Ngũ Lão), "Tỳ hổ ba quân – Giáo gươm sáng chói" (Trương Hán Siêu), "Sĩ tốt kén tay tì hổ – Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh" (Nguyễn Trãi),… Và những năm đầu kháng chiến chống Pháp, anh bộ đội Cụ Hồ mang sức mạnh Việt Nam từ nghìn xưa ra trận với chí khí lẫm liệt vô song: "Quân xanh màu lá dữ oai hùm". Trải qua những năm dài chiến đấu ác liệt, nếm trải biết bao cay đắng ngọt bùi, bao thiếu thốn gian truân, từng đánh những trận đánh đẫm máu giữa rừng sâu. Quang Dũng đã kế thừa một cách sáng tạo thơ ca cổ điển dân tộc để viết nên những vần thơ hào sảng như vậy!
Đoàn binh Tây Tiến phần lớn cán bộ và chiến sĩ là thanh niên, học sinh, sinh viên của 36 phố phường, nơi ngàn năm văn vật. Là "Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng…" ra đi đánh giặc với bao "mộng" và "mơ" tuyệt đẹp:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm".
Mộng chiến công. Mộng đánh tan đồn giặc, cướp súng giặc giết giặc. "Mắt trừng" gợi tả tư thế chiến đấu lẫm liệt vô song khi đánh giáp lá cà, khi tung hoành trong đồn giặc! Đồng thời trong hành trang và trong tâm hồn những người lính trẻ còn mang theo bao giấc mơ tuyệt vời. Nhớ về phố cũ trường xưa, mơ về một tà áo đẹp, một "dáng kiều thơm", nơi Hà Nội thân yêu.
Câu thơ "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm" thể hiện chất tài tử, hào hoa của người lính Tây Tiến. Còn người chiến sĩ trong bài "Đồng chí" của Chính Hữu, thì nỗi nhớ hướng về ruộng nương, về "gian nhà không mặc kệ gió lung lay", về giếng nước gốc đa… Nỗi nhớ của anh Vệ quốc quân trong bài thơ "Nhớ" của Hồng Nguyên là cả một mối tình quê trang trải, đằm thắm, sâu nặng, thiết tha:
… "Ba năm rồi gửi lại quê hương,
Mái lều gianh,
Tiếng mõ đêm trường,
Luống cày đất đỏ,
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya"…
Qua đó, ta thấy nỗi nhớ, cái mộng mơ của người lính thời trận mạc là nông dân, hay tiểu tư sản thành thị đều đẹp và đáng yêu vì nỗi nhớ, cái mộng mơ ấy đều biểu lộ một tình yêu quê hương thắm thiết. Thời gian và độc giả hơn nửa thế kỉ qua đã khẳng định cái hay riêng của thơ Quang Dũng vì nó góp phần làm phong phú thêm chân dung "anh bộ đội Cụ Hồ" trong kháng chiến chống Pháp.
Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng – Bài làm 6
Cuộc kháng chiến chống Pháp đi qua để lại những dâu ấn không thể phai mờ trong tâm hồn dân tộc. Đó là điểm hội tụ của muôn triệu tấm lòng yêu nước môi trường thử thách tinh thần chiến đấu ngoan cường, bất khuất của nhân dân ta. Cuộc kháng chiến còn làm nảy sinh biết bao hình ảnh đẹp mà đẹp nhất là hình ảnh người lính.
Bên cạnh những bài thơ nổi tiếng một thời như Đồng chí của Chính Hữu, Nhớ của Hồng Nguyên…, Tây Tiến của Quang Dũng là một thi phẩm đặc sắc Đoàn quân Tây Tiến quy tụ một lực lượng đông đảo đủ mọi tầng lớp thanh niên từ khắp phố phường Hà Nội. Có nhiều thanh niên học sinh thuộc tầng lớp trí thức tiểu tư sản vừa rời trang sách nhà trường để tham gia vào cuộc chiến đấu của dân tộc. Tất cả những con người ấy ra đi với lí tưởng chung của dân tộc chiến đâu bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc. Họ ra đi không hẹn ngày trở về chiến đấu với mục đích “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” Cái ảnh thần ấy là hào khí của cả một thế hệ, đã từng được phản ánh trong một bài hát thời đó:
Đoàn Vệ quốc quân một lần ra đi,
Nào có sá chi đâu ngày trở về.
Trong đoàn người nô nức lên đường đi chiến đấu, trong hàng ngũ những thanh niên trí thức ngày hôm qua có khi là những tự vệ chiến đấu trên phố phường, chiến lũy Hà Nội, mà hôm nay đã có mặt trong đoàn quân Tây Tiến, thấp hoáng xuất hiện một khuôn mặt: Quang Dũng, tác giả của bài thơ. Như bao thanh niên trí thức của Hà Nội ngày ấy, Quang Dũng cũng háo hức gia nhập đoàn quân Tây Tiến với một niềm say mê của tuổi trẻ và một chút lãng mạn của những người thanh niên “nho sĩ quỵ tộc” ảnh hưởng trong Chinh phụ ngâm:
Giã nhà đeo bức chiến bào hay Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao. Cũng chính vì thế mà những thanh niên như Quang Dũng sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, hi sinh để chiến đấu đến ngày thắng lợi cuối cùng. Vào Tây Tiến, Quang Dũng cùng sống và chiến đấu một thời gian với đơn vị này và sau đó chuyển sang đơn vị khác. Một ngày ngồi ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng nhớ về những người đồng đội, nhớ về những tháng ngày chiến đâu gian nan nhưng hào hùng, nhớ đơn vị cũ, nhớ những con đường hành quân mà ông cùng đơn vị từng đi qua. Nỗi nhớ ấy dần lớn lên trong Quang Dũng, bật ra thành hai câu thơ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
Cuộc sống chiến đấu của Tây Tiến cùng những nơi mà đơn vị đã đi qua hẳn là những kỉ niệm hết sức sâu đậm trong tâm hồn nhà thơ. Hẳn một phần quãng đời Quang Dũng gắn bó với Tây Tiến là cuộc sống hoạt động trong vùng rừng núi. Bởi thế, nhà thơ nhớ về Tây Tiến là nhớ ngay về sông Mã, nhớ về rừng núi với bao kỉ niệm vui buồn, ấn tượng về một miền rừng núi khắc nghiệt đã để lại trong tâm hồn nhà thơ dấu ẩn chẳng phai mờ. Vì thế, Quang Dũng nhớ về những tháng ngày đã qua với một tình cảm yêu thương lắm nhưng chẳng biết gọi lên chính xác nỗi nhớ ây. Nhớ chơi vơi! hai liếng chơi vơi dùng ở đây thật là đắc địa. diễn tả một nỗi nhớ không có hình, không có lượng nhưng hình như rất nặng và mênh mang đầy ắp. Cái tâm trạng nhớ ấy ta đã bắt gặp không chỉ một lần trong ca dao: Ra về nhớ bạn chơi vơi, hoặc:
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi,
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than.
Quang Dũng lấy nỗi nhớ trong ca dao để tượng trứng thêm cho nỗi nhớ chơi vơi của mình, thật là chi tiết đắt giá! Ngay từ đầu bài thơ, ông đã miêu tả vùng rừng núi ấy thiết tha như thế làm cho người đọc chú ý ngay. Nhớ Tây Tiến, nhớ về sông Mã và núi rừng trùng điệp, nhớ con đường hành quân:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Con đường hành quân điệp trùng với bao cái khắc nghiệt, dữ dội của mỗi vùng rừng biên ải. Đọc đoạn thơ, chưa cẩn suy ngẫm nội dung bên trong, chúng ta đã có thể hình dung ra con đường mà Quang Dũng miêu tả. Kết câu đoan thơ cứ thanh bằng thanh trắc đan chéo nhau, trải dài ra miên man, vô tận như con đường xa thẳm khấp khểnh. Nhạc điệu êm ả, triền miên. Đoàn quân Tây Tiến đi trong lớp sương dày của núi rừng, tất cả lung linh trong lớp sương khói mờ ảo, như thực, như mộng. Thế nhưng, mỗi địa danh đều gợi lên trong người đọc về hình ảnh của một xứ lạ, phương xa; nếu ta chỉ thử thay Sài Khao bằng một tên gọi khác là lớp sương huyền ảo ấy lan biến ngay. Đoàn quân Tây Tiến cất bước , trên con đường xa vạn dặm, với cái trắc trở, gập ghềnh của con đường. Đã dốc lên khúc khuỷu mà còn dốc thăm thẳm, đã ngàn thước lên cao rồi lại ngàn thước xuống thì đúng là đến độ cao chất ngất, ngoằn ngoèo khó đi. Tất cả những đặc điểm ấy diễn tả nổi khó khăn của đoàn quân Tây Tiến khi hành quân. Nó ghi lại ấn tượng về một miền rừng núi thật là dữ dội và khắc nghiệt Quang Dũng có những cách dùng từ rất tinh tế mà cũng hết sức tinh nghịch: núi cao chạm mây nổi thành cồn heo hút, và để diễn tả chiều cao của núi thì chỉ ba chữ súng ngửi trời nghe thật ngộ nghĩnh. Phải chăng đó là cách gọi của lính mà Quang Dũng ghi lại với tư cách một người trong cuộc? Dù sao, qua những từ ngữ, chi tiết và cách kết hợp thanh điệu của đoạn thơ cũng đã vẽ lên trước mát ta hình ảnh một miền rừng núi mà đoàn quân Tây Tiến đã từng đi qua. Có những câu thơ dùng toàn vần bằng rất hay:
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Sau khi ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống người chiến sĩ Tây Tiến như đứng trên nùi cao mà nhìn xuống thung lũng phủ kín trong màn mưa. Những ngôi nhà như đang trôi bồng bềnh trong làn mưa trắng. Thanh bằng của từng chữ trải ra, mênh mang, diễn tả cái màn mưa phủ giăng thung lũng. Rừng núi trùng, ấn tượng về miền rừng núi cũng thật là khắc nghiệt và dữ dội:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Chỉ hai câu thơ thôi mà gieo vào lòng ta tất cả những sự khắc nghiệt của miền rừng núi này – một miền núi rừng âm u với thú dữ đe doạ con người. Hai chữ Mường Hịch đi với nhau nghe nặng như chân cọp. Có một điều kì lạ là nếu ta thay địa danh này bằng hai chữ khác như Châu Thuận chẳng hạn, thì hiệu lực câu thơ sẽ giảm sút ngay. Qua sự miêu tả của Quang Dũng, một vùng núi rừng biên ải hiện lên với tất cả sự khắc nghiệt, dữ dội của thiên nhiên. Đó là những khó khăn mà người chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua trên con đường hành quân. Cái trắc trở, gian lao cùa con đường Tây Tiến chợt làm chúng ta nhớ đến câu thơ của Lí Bạch:
Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên.
(Đường xứ Thục khó đi, khó hơn lên tận trời xanh).
Đó là tất cả những gian khổ, nguy hiểm do thiên nhiên đem đến mà người chiến sĩ Tây Tiến phải chịu đựng.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ, bỏ quên đời!
Quang Dũng nói cái thực trên con đường Tây Tiến. Bao người chiến sĩ đã nằm lại trên con đường hành quân. Có một điều lạ làm toả sáng cả ý thơ là người lính Tây Tiến đến lúc gục xuống vẫn cố gắng trong tư thế của người lính, chết rồi nhưng súng mũ vẫn còn đó, hành trang của người chiến sĩ vẫn còn trong tư thế tiếp tục cuộc hành trình. Bao cảnh gian khổ khó khăn, khắc nghiệt dữ dội của con đường hành quân, của thiên nhiến xứ lạ đã thử thách người chiến sĩ Tây Tiến một cách ghê gớm. Có những người lính đã vượt qua được, và cũng không ít những người phải nằm lại phía sau. Người lính dãi dầu qua mưa nắng, đi từ khó khăn này đến gian khổ khác, chịu hết thử thách này đến thử thách thác mà dường như vẫn chẳng nể hà; đến khi kiệt sức phải gục xuống thì cũng cố gắng gục xuống trong tư thế của người chiến sĩ.
Cho dù Quang Dũng có nói sự thực về một vùng rừng núi che lấp con người, nhưng chính những phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ đã đưa họ bay lên, vượt lên trên cái gian khổ và thiếu thốn. Quang Dũng là một người trong cuộc, rừng là chiến sĩ Tây Tiến, chính vì vậy mà nhà thơ viết về cuộc sống gian khổ của người chiến sĩ Tây Tiến một cách hết sức cảm động. Cái khắc nghiệt, khổ và dữ dội của một miền biên ải, những gian truân mà người chiến sĩ Tiến phải chịu đựng và những ấn tượng không thể nào quên. Quang Dũng về người lính Tây Tiến không như những nhà thơ khác; ông nói thật về sự khổ, hi sinh của người lính một thời. Thế nhưng, hình ảnh anh bộ đội Tây Tiến không vì thế mà trở nên uỷ mị, ngược lại càng thêm cao đẹp hơn. Miêu tả nét chiến sĩ với cái bi, nhưng là “bi tráng”. Nói cái gian khổ để đề cao chiến thắng nói hi sinh để nâng hình ảnh người lính lên một tầm cao thời đại cũng là một cách “vẽ mây nảy trăng” trong hội hoạ vậy. Bởi chiến thắng có giá trị gì khi chiến thắng dễ dàng, không có hi sinh? Và hình ảnh người lính sẽ không thật cao đẹp nếu họ không trải qua những thử thách gian truân của cuộc sống chiến đấu khắc nghiệt.
Lao xao sóng vỗ ngọn tùng
Gian nan là nợ anh hùng phải vay.
Đó là một lời đúc kết kinh nghiệm về giá trị cùa chiến thắng, giá trị cả phẩm chất con người. Giữa bao cái gian khổ, khắc nghiệt đã thành ấn tượng niềm vui, dù ít ỏi, càng đáng nhớ hơn:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói ….
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Dường như để trả trạng thái tâm hồn chúng ta về thế cân bằng sau khi chùng xuống trước cuộc sống chiến đấu cùa người chiến sĩ Tây Tiến, Quang Dũng hồi tưởng lại nhiều hình ảnh vui, ấm áp. Khói bếp, mùi thơm cơm nếp gợi cái ấm cúng của cuộc sống thanh bình, hạnh phúc. Sức nóng của nó đủ làm tâm hổn dần ấm lại sau những phút giây chứng kiến những gian khổ của người lính, đuốc hoa là hình ảnh có sức khơi gợi, gợi cho ta cái cảm giác tươi vui như đang chứng kiến lễ hội đông vui. Hai liếng kìa em vừa ngỡ ngàng, vừa sung sưc nó diễn cả tâm hồn của người chiến sĩ Tây Tiến. Trong cả đoạn thơ dìu dặt thành tiếng nhạc, tiếng khèn, phảng phất hình ảnh vui tươi của cuộc sống ) bình như chẳng biết đến chiến ưanh. Hình ảnh nhạc về Viên Chăn xây hồn là hình ảnh đẹp, thơ mộng, diễn tả tâm hồn phong phú của người lính Tây Tiến . Họ tổ chức hội vui, sau bao thử thách khắc nghiệt của núi rừng dữ dội. Và mặc dù biết rằng sẽ còn liếp tục chịu đựng những gian truân, hi sinh, người lính Tây Tiến vẫn múa hát, đùa vui, vẫn lạc quan yêu đời. Có thể chỉ ngày hôm sau một người nào đó trong số họ phải nằm lại nơi núi rừng u tịch, nhưng hôm nay làm hồn họ vẫn mộng mơ, mơ đến những hình ảnh đẹp của thi và hoạ, xây hồn thơ. Và như vậy, họ sẵn sàng đón nhận mọi thử thách tiếp theo, coi đó như một việc bình thường mà đời lính phải chấp nhận. Không lên gân, không khiên cưỡng, mọi gian khổ hi sinh đối với người lính là chuyện binh thường và tất yếu, vì vậy mà họ vẫn lạc quan, vẫn yêu đời, vẫn sống với lâm hồn trẻ trung, tươi mát. Cũng vậy mà người lính Tây Tiến có thể vẫn nhớ một dáng thuyền độc mộc, hoặc một bông hoa trên dòng nước lũ. Những hình ảnh rất binh thường ấy, ngỡ rằng sau bao sự thử thách về tinh thần, người lính sẽ quên đi. Nhưng không, họ vẫn nhớ. Những hình ảnh ấy in sâu vàu tâm hồn ngựời lính Tây Tiến, là nguồn động viên thúc giục họ chiến đấu, dù tiếp tục đón nhận những thử thách mới:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm. li ''àn quân không mọc tóc! Có cách nói nào lại khơi dậy nhiều cảm xúc đến thế! Như vậy thì hình ảnh của anh bộ đội Tây Tiến có trở nên quái đản không? Không đâu! Đó chính là hình ảnh oai hùng của anh “Vệ trọc” nổi tiếng một thời rét nên tóc rụng vả lại, cái cách nói đoàn quân không mọc tóc ấy phần nào cũng dựng nên hình ảnh người tráng sĩ với dáng dấp thật hùng dũng và hiên Quân không mọc tóc, quân lại xanh màu lá, màu xanh ấy có thể do cành lá trang, nhưng chủ yếu là do sốt rét rừng. Những cơn sốt rét ghê gớm đã để lại ấn tượng sâu sắc cho người chiến sĩ. Ta cảm động trước hình ảnh người sĩ Tây Tiến, và chợi nhớ đến hình ảnh người chiến sĩ trong một số bài thơ đương thời:
Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật,
Đâu còn tươi nữa những ngày qua.
Người lính Tây Tiến cũng chịu đựng những cơn sốt rét ghê gớm ấy, thế nhưng, nó không làm nhụt đi ý chí của người chiến sĩ mà ngược lại họ càng chiến đấu dũng cảm hơn, kiên cường hơn, quân xanh màu lá nhưng vẫn dữ oai Cái khí phách hào hùng của người chiến sĩ Tây Tiến được ghi lại bằng sự so sánh cân bằng. Nếu ở khổ thơ trên, người lính chịu sự đe doạ của cọp thì họ cũng chiến đấu với tinh thần dũng cảm của một chúa sơn lâm như thế. Câu thơ sau nâng đỡ câu thơ trước vút bay lên như ánh hào quang của phẩm chất người lính Tây Tiến. Miêu tả khí thế chiến đấu hào hùng của người chiến thắng một sự so sánh như thế, Quang Dũng thực sự đã hiểu người lính và đã hòa đồng với họ. Chiến đâu dũng mãnh như thế, nhưng người lính Tây Tiến vẫn có đời sống tâm Hà Nội hết sức tinh tế:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Người chiến sĩ ra đi từ những mái trường, chiến đấu nhưng vẫn không quên hậu phương. Phía trước là trận đánh, tình cảm thể hiện qua giấc mộng, có thực, có mơ. Dáng kiều thơm gợi nên cái dáng vẻ yêu kiều của người con gái Thủ đô chữ thơm được dùng với nghĩa như “sắc nước hương trời” vậy! Người chiến sĩ của Quang Dũng ra đi, mang theo cả phong thái hào hoa của người thanh niên trí thức, cái phong thái đã giúp người chiến sĩ sống bằng đời sống tâm ít phong phú sau mỗi trận đánh ác liệt.
Cái cuộc sống tâm hồn ây là nguồn động lực giúp người lính tiếp tục chiến đâu để giành lây độc lập, tự do cho Tổ quốc thân thương. Và cũng vì thế, người chiến sĩ chấp nhận sự hi sinh:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc ười xanh.
Cứ thử làm công việc tách hai câu thơ thành từng câu một. Ôi! Cái ấn tượng bi thảm đên vô cùng mà câu thơ đầu mang đến thật mạnh mẽ. Không hiểusao, cứ mỗi lần đọc đên câu thơ này là tôi lại chìm vào trong suy tưởng và nước mắt cứ rưng rưng! Trên con đường gập ghềnh xa thẳm của miền núi rừng biên giới đoàn quân Tây Tiến cứ đi và thỉnh thoảng có những con người phải tách ra khỏi đội hình. Những nấm mộ của người chiến sĩ mọc lên. Câu thơ thật là bi thảm. Nhưng câu thơ sau như một lực nâng vô hình, đã đưa câu thơ đầu lên cao, cái thảm giờ đây đã trở thành bi tráng. Nó bi tráng và hào hùng bởi Quang Dũng nói được một điều cốt lõi trong nhân cách của người lính: biết hi sinh, biết gian khổ nhưng vẫn cứ ra đi giải phóng quê nhà. Họ ra đi chẳng tiếc đời xanh, bởi quãng đời tươi đẹp ấy đã hiến dâng cho một lí tưỏng cao đẹp: chiến đấu vì tổ quốc. Họ ra đi và ngã xuống thanh thản không một chút vướng bận, cái chết được xem nhẹ lựa lông hồng:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Cách dùng từ áo bào của Quang Dũng làm cho câu thơ trở nên cổ kính, áo bào chứ không phải chiến bào; người chiến sĩ như những danh tướng thời xưa da ngựa bọc thây là một điều vinh quang. Cũng như thế, người lính coi việc hi sinh trên chiến trường là một nghĩa vụ thiêng liêng. Người chiến sĩ Tây Tiến ngã xuống và thanh thản về đất. Đất sinh ra anh và lại đón nhận anh về sau khi làm tròn nghĩa vụ. Anh về đất như một hành động tựu nghĩa của những anh hùng. Mở đầu bài thơ là hình ảnh sông Mã, kết thúc bài thơ vẫn là tiếng gầm thét của dòng sông này. Dòng sông tiễn anh ra đi chiến đấu lại đón anh về:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Quang Dũng khẳng định lại một lần nữa cái ý chí nhất khứ bất phục phản ra đi là không trở lại). Đó cũng là ý chí quyết tâm của cả một thế hệ, của một thời đại.
Những gian khổ, hi sinh của cuộc kháng chiến là những kỉ niệm không thể quên. Sẽ không bao giờ còn có lại thời kì gian khổ đến mức ấy và cũng hào hung đến mức ấy. Và cũng khó có thể có được bài thơ Tây Tiến thứ hai.
Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng – Bài làm 7
Chiến tranh, người lính luôn là đề tài không bai giờ cũ đối với những nghệ sỹ thời chiến. Chúng ta bắt gặp hình ảnh những người lính trong “Đồng chí” của Chính Hữu, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật. Nhưng có lẽ ấn tượng, trữ tình và chân thực là hình ảnh người lính trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng. Với cách khắc họa hình tượng người lính thành công, người đọc đã không thể quên được hình ảnh những người lính cụ hồ thời kì kháng chiến chống pháp.
Bài thơ cũng chính là nỗi nhớ của chính tác giả về những năm tháng chiến tranh ác liệt nơi chiến trường xưa. Bài thơ được mở đầu bằng một tiếng gọi tha thiết:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Phù Lao Chanh là mảnh đất mà trước đây đoàn quân đã từng đi qua. Quang Dũng cùng rất nhiều thanh niên khác ở Hà Thành đã xếp bút nghiên lên đường ra chiến trường theo tiếng gọi của tổ quốc. Câu thơ cất lên như một tiếng gọi tha thiết về quá khứ từng trải qua. Sông Mã là con sông lớn, in dấu nhiều cuộc chiến tranh đổ lửa cũng như để lại bao nhiêu hoài niệm thời xa vắng của tác giả. Nỗi nhớ trong lòng tác giả là một nỗi nhớ “chơi vơi”. Một từ ngữ rất nhẹ nhưng dường như lại khiến cho nỗi nhớ thêm đầy, không thể nào vơi đi bớt.
Quang Dũng đã cụ thể hóa nỗi nhớ đó bằng những hình ảnh còn đọng lại trong ký ức về vùng đất chiến tranh ác liệt này:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Với những địa danh quen thuộc như “Sài Khao” và “Mường Lát” gợi nhớ về những năm tháng chiến tranh đó. Hai câu thơ với giọng rất êm, hình ảnh rất thi vị, nhẹ nhàng khiến cho người đọc cảm nhận đươc sự thi vị và lắng sâu. Đoàn quân Tây Tiến hành quân trong khói sương mù mịt, cái lạnh dường như len lỏi vào sâu trong tim. Một khung cảnh lãnh mạn, trữ tình giữa chiến tranh ác liệt thật khiến nhiều người ngưỡng mộ. Đó chính là một sự cảm nhận tinh tế và sâu sắc về thiên nhiên giữa núi rừng thăm thẳm.
Giữa thiên nhiên thơ mộng, trữ tình, hình ảnh kì vĩ, bao la của thiên nhiên và đất trời được phác họa qua nét bút của tác giả khiến cho người đọc cảm nhận được cuộc sống gian khổ, cuộc chiến khó khăn của đoàn quân. Từ ngữ “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” đã phần nào diễn tả được sự gồ ghề, khó khăn, khập khiễng của núi rừng. Có cảm giác như đoàn quân phải vượt qua bao nhiêu ngọn núi, đối mặt với bao nhiêu hiểm nguy mới có thể giành được chiến thắng.
Có một hình ảnh rất đẹp, rất lãng mạn hiện lên “súng ngửi trời”. Thật thi vị và trữ tình. Hình ảnh “súng ngửi trời” là một hình ảnh mang tính chất nghệ thuật cao, gợi nên khung cảnh thật nên thơ. Nó hoàn toàn đối lập với cuộc chiến tranh đang diễn ra ác liệt ở ngoài kia.
Chiến địa ác liệt, thiên nhiên hùng vĩ và nguy hiểm là những thử thách mà đoàn quân Tây Tiến cần vượt qua để chiến thắng được kẻ thù. Dù trong mưa bom bão đạn nhưng đoàn quân vẫn luôn lạc quan.
Câu thơ cuối cùng dường như lắng lại, bình dị, êm đềm:
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Một câu thơ toàn vần bằng gợi lên những lúc nỗi lòng của đoàn quân không vướng bận bất cứ điều gì. Câu thơ diễn tả trận mưa rơi nhẹ tênh, phủ trắng xóa giữa núi rừng. Màn mưa ấy che kín lối đi, phủ kín những con đường mà đoàn quân đi qua.
Sự tàn khốc ác liệt của thiên nhiên còn được diễn tả một cách gân guốc:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục bên súng mũ bỏ quên đời
Thiên nhiên giữa núi rừng qua nét bút của Quang Dũng đã phần nào gợi lên sự khắc nghiệt, khó khăn, gian khổ, đầy những hiểm ngụy. Và có rất nhiều chiến sỹ, nhiều đồng đội đã phải bỏ mình nơi đó, tuổi trẻ dở dang ước mơ dở dang. Sự trầm lắng của câu thơ tạo cho cả bài thơ sự thành kính và thiêng liêng đối với những người đã khuất.
Nối tiếp dòng cảm xúc đó là nỗi nhớ về những năm tháng êm đềm, với những con người bình dị, nghĩa tình nơi đấy. Những kỉ niệm khó lòng quên được:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa…
Hình ảnh những mái nhà tranh khi chiều muộn về có những làn khói trắng lan tỏa ra tạo thành từng lớp trắng lảng bảng ở trên núi. Nhớ mùa nếp xôi ấm lòng, gần gũi biết bao nhiêu. Những thước phim đó cứ cuồn cuộn, chảy mãi trong lòng người lính Tây Tiến.
Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hiện lên ngày càng rõ nét và chân thưc:
Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ hà nội dáng kiều thơm.
Một nét vẽ thật táo bạo, chân thực về lính Tây Tiến. Sự gian khổ, sự khắc nghiệt của thời tiết đã khiến cho những thanh niên Hà Thành trai tráng trở nên mạnh mẽ, chai lì. Mặc dù “không mọc tóc” nhưng nét dữ dằn cũng khiến cho quân giặc phát sợ. Họ vẫn hiên ngang, mạnh mẽ chống chọi lại với quân thù và thời tiết khắc nghiệt/. Dù cuộc chiến có đầy bão giông thì vẫn không khiến cho những người lính thôi mơ mộng, Họ từng là những thanh niên Hà Thành xếp bút nghiên lên đường đi đánh trận, ở nơi xa vẫn có những bóng dáng để họ nhớ, họ mong, làm động lực để họ bước tiếp. Đây là điều đáng trân trọng đối với những người lính.
Quang Dũng nhận ra sự khắc nghiệt của chiến tranh, những mất mát phải đánh đổi, những hi sinh phải đối mặt:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Có lẽ đây là đoạn thơ hào hùng, mang âm hưởng bi tránh nhất bài thơ. Những người chiến sỹ đã anh dũng nằm lại với đồng đội, với đất mẹ. Tuổi xuân của họ còn đó nhưng vì đất nước mà hi sinh thì “chẳng tiếc”. Những con người vô danh nhưng họ luôn sống mãi trong lòng người ở lại.
Họ ra đi nhưng lời hẹn ước hòa bình ngày xưa sẽ để những người còn ở lại tiếp bước mà chiến đấu và cống hiến hết mình.
Bài thơ “Tây Tiến” của Quang DŨng thực sự gieo vào lòng người nhiều cảm xúc. Là sự ngưỡng mộ, khâm phục cũng như xót xa cho những gì đã xảy ra trong chiến tranh.
Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng – Bài làm 8
Cuộc kháng chiến chống Pháp hào hùng của dân tộc đã để lại nhiều dấu ấn không thể phai mờ. Trong những dấu ấn đó là hình ảnh người lính – người quả cảm đã ngã xuống cho đất nước thanh bình hôm nay. Bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng chính là một minh chứng tiêu biểu khi đã dựng lên bức tượng đài bất tử về người lính trong suốt những năm tháng chiến tranh gian lao.
Tây Tiến trước hết là tên một đoàn quân với đa số là những chàng trai sinh viên Hà thành. Đại đội trưởng của đoàn quân ấy không ai khác chính là nhà thơ Quang Dũng. Khi phải chuyển đơn vị, nỗi nhớ núi rừng, nhớ đồng đội đã thôi thúc Quang Dũng viết thành thơ. “Tây Tiến” vì thế cũng chính là một bài thơ thể hiện nỗi nhớ về đồng đội, về chiến trường xưa với bao kỉ niệm vui buồn đủ cả. Bài thơ được mở đầu bằng một tiếng gọi, chân thành, tha thiết:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sông Mã không chỉ là một địa danh mà nó còn là một “chứng nhân lịch sử” trong suốt chặng đường hành quân. Tây Tiến cũng không chỉ là tên một đoàn quân mà nó đã trở thành một người bạn, một người tri kỉ bấy lâu. “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi” như thể bật lên rằng: những ngày tháng cùng nhau hành quân ròng rã, buồn vui nay đã xa rồi. Cách gieo vần “ơi” trong hai câu đầu này cũng cho thấy nỗi nhớ trải dài, miên man, cồn cào, da diết và vang vọng.
Nhớ về Tây Tiến, nhà thơ cũng không thể nào quên được những khó khăn gian khổ suots chặng đường hành quân. Một loạt các địa danh và những từ láy được sử dụng rất đắt đã gợi lên những khung cảnh hùng vĩ, hoang sơ mà không kém phần hiểm trở, gian nguy:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Những “hoa”, những “sương” làm cho thiên nhiên trở nên thơ mộng và cảm giác bình yên vui tươi hơn. Thế nhưng, những “dốc lên khúc khuỷu”, “heo hút cồn mây” lại tôn lên vẻ đẹp hùng vĩ cho bức tranh thiên nhiên kì tráng. Không những thế, “nhà ai mưa xa khơi” và “ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” đã gợi lên sự hiểm trở, gồ ghề, khó khăn, khập khiễng của núi rừng.
Sự trắc trở, hiểm nguy của thiên nhiên còn được diễn tả một cách gân guốc:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
“Chiều chiều” rồi “đêm đêm” thiên nhiên dữ dội “gầm thét” và những hiểm nguy luôn rình rập như thể “trêu người”. Thiên nhiên hùng vĩ mà kì tráng, qua nét bút của Quang Dũng đã trở nên khắc nghiệt, khó khăn và đầy những những hiểm ngụy. Và vì chiến tranh, vì rừng thiêng nước độc cho nên rất nhiều chiến sỹ, rất nhiều đồng đội đã phải bỏ mình nơi đó, bỏ lại tuổi trẻ và những ước mơ dở dang:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục bên súng mũ bỏ quên đời
Sự trầm lắng của câu thơ như một nốt trầm lặng thành kính, thiêng liêng trong một bản nhạc hào hùng vừa qua. Ở đó, những người lính thật đáng quý biết bao. Họ đã hy sinh cả tuổi trẻ – điều tốt đẹp nhất của cuộc đời – để gìn giữ cho hòa bình hôm nay.
Nhớ về Tây Tiến, nhà thơ cũng không chỉ nhớ về thiên nhiên hùng vĩ, hiểm nguy hay những mất mát đau thương nơi chiến trường các đồng đội đã gửi lại tuổi xanh mà nhà thơ còn nhớ về những kỉ niệm đẹp đẽ bên nhau, giữa tình đồng đội, tình quân dân:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Đây có thể nói là những câu thơ đẹp nhất trong bài thơ. Vẻ đẹp ánh sáng và âm thanh, có thơ và có nhạc đầy say mê và lãng mạn. Nó đối lập hoàn toàn với những con đường hành quân gian lao, nguy hiểm, với những thiếu thốn, nhọc nhằn của người lính ở phía trên. Trong buổi liên hoan văn nghệ, những điệu nhạc hồn thơ và cô em xiêm áo lộng lẫy e lệ đã làm say lòng người lính trẻ, làm cho họ quên hết những mệt mỏi, gian khó đã qua và sắp tới. Không gian Tây Bắc lãng đãng, mơ hồ trong một miền tâm thức, với “dáng người trên độc mộc”, với “dòng nước lũ hoa đong đưa”. Đến đây, vẻ đẹp lãng mạn, nên thơ đã thay dần cho cái vẻ tàn khốc, hoang sơ trước đó. Không những thế, trong đoạn thơ này, người đọc cũng thấy toát lên cái tình sâu lắng thiết tha. Đó là tình đồng đội, tình quân dân, tình người thắm thiết, keo sơn.
Những đêm liên hoan, những nét tinh nghịch đáng yêu của người lính là những hình ảnh khắc sâu vào tâm khảm của nhà thơ. Nét tinh nghịch, đáng yêu ấy còn được dí dỏm ngay cả khi khó khăn nhất, cận kề cái chết nhất:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Sự sự khắc nghiệt của thiên nhiên Tây Bắc đã khiến cho những chàng trai Hà thành trở nên tiều tụy “da xanh”, đầu “không mọc tóc”. Thế nhưng, họ vẫn giữ được vẻ uy nghiêm, đoàn quân vẫn “dữ oai hùm” và vẫn giữ được nét thanh lịch, nho nhã của người Hà thành “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Chính hình ảnh “dáng kiều thơm” đầy mơ mộng đã trở thành động lực giúp cho những người lính bước tiếp trên con đường hành quân còn nhiều gian khổ.
“Tây Tiến” không chỉ khắc họa hình ảnh, đời sống hiện thực của những người lính cụ Hồ trong những năm tháng chiến tranh ác liệt mà Quang Dũng còn dựng lên một bức tượng đài kì vĩ về người anh hùng của đất nước, của dân tộc. Giữa núi sông tráng lệ, bức tượng đài ấy đứng sừng sững càng làm tôn thêm vẻ đẹp kì vĩ và bất tử:
Rải rác bên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào tay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Dù là nói về cái chết, nỗi đau thương mất mát nhưng Quang Dũng lại không dùng những từ ngữ bi ai. Trái lại, với hình ảnh “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” và chiếc “áo bào” cho người chiến sĩ quả cảm về với đất đã tạo nên một hình ảnh kì vĩ, lớn lao hơn cái chết. Các anh đã hy sinh tuổi trẻ của mình để tiến bước ra chiến trường, bảo vệ núi sông đất nước. Trên con đường hành quân đầy gian khổ ấy, có biết bao người lính đã ngã xuống, gửi lại nơi này tuổi xanh và những mơ ước còn dang dở. Thế nhưng các anh không sợ và cũng “chẳng tiếc”, bởi hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân là một nghĩa cử cao đẹp và thiêng liêng. Cũng chính vì thế mà sông Mã “gầm lên khúc độc hành” như một khúc tráng ca tiễn đưa người anh hùng về với đất mẹ. Bức tượng đài về người anh hùng đặt giữa thiên nhiên, giữa cha trời đất mẹ bỗng trở nên kì vĩ, lớn lao và bất tử.
Chiến tranh đã lùi xa nhưng âm vang vọng của nó thì còn mãi. “Tây Tiến” chính là một trong những bài ca không thể nào quên của những năm tháng trường kì chống Pháp. Bằng bút pháp hiện thực kết hợp với lãng mạn, Quang Dũng đã khắc họa nên bức chân dung người lính cụ Hồ với những vất vả, gian truân nhưng cũng đầy hào hoa lãng mạn, dựng nên bức tượng đài kì vĩ về người anh hùng bất khuất trong chiến đấu. Với tất cả tính thần ấy, “Tây Tiến” đã trở thành một dấu ấn thiếng liêng với nhà thơ Quang Dũng và với tất cả chúng ta.
Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng – Bài làm 9
Quang Dũng là nhà thơ tiêu biểu của chùm thơ chiến sĩ. Với lời thơ hào hùng, lãng mạn những sáng tác của ông đều để lại âm vang trong lòng người đọc cho đến tận ngày nay. Và "Tây Tiến" là một trong những tác phẩm như thế.
Tây Tiến là tên của một đoàn quân với đa số là những chàng trai sinh viên hà thành. Đoàn quân được thành lập đầu năm 1947 và đại đội trưởng không ai khác chính là Quang Dũng. Cuối 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Tại làng Phù Lưu Chanh, ông viết bài thơ" Nhớ Tây Tiến" sau in trong "Mây đầu ô" đổi tên thành Tây Tiến. Nổi bật của tác phẩm là cảm hứng lãng mạn và bi tráng của từng câu thơ. Mở đầu tác phẩm là nỗi nhớ miên man trải dài.
"Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"
Tác giả gọi tên dòng sông Mã- một nhân chứng theo suốt bước chân hành quân của đoàn quân. Quang Dũng nhớ về đồng đội, "nhớ về rừng núi". Nỗi nhớ ấy cứ cồn cào, da diết để rồi bật lên thành tiếng gọi "Tây Tiến ơi". Đặc sắc nghệ thuật của hai câu thơ đầu chính là cách gieo vần "ơi" và từ láy "chơi vơi". Bằng sự thành công của đặc sắc ấy, nhà thơ đã diễn tả hết được nỗi lòng của mình. Nỗi nhớ của ông cứ miên man, cồn cào,da diết khôn nguôi. Nỗi nhớ từ tận đáy lòng rồi bật lên vang vọng.
Nhớ về Tây Tiến là nhớ đến những khó khăn gian khổ suốt chặng đường hành quân. Một loạt các địa danh được nhà thơ nhắc đến ở những câu tiếp: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu. Đây đều là những địa danh heo hút, hoang vu, là những minh chứng cho chặng đường đầy gian khổ của người lính Tây Tiến.
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi"
Hai câu thơ này thể hiện rất rõ cảm hứng lãng mạn trong thơ của Quang Dũng. Trong đêm lạnh ở vùng cao, sương giăng phủ kín, mặc dù đã "mỏi" nhưng con đường hành quân hiện ra vẫn đẹp, vẫn thơ mộng "hoa về trong đêm hơi". Những câu thơ tiếp theo thể hiện rõ sự khắc nghiệt của thiên nhiên trên đường hành quân. Một loạt các từ ngữ diễn tả sự gập ghềnh của hành trình ấy đã diễn tả một cách chân thực về thiên nhiên hoang sơ nơi rừng núi:" dốc lên khúc khuỷu, dốc xuống thăm thẳm đường đi heo hút". Câu thơ "dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm" như bị chặt đôi đã diễn tả thật rõ sự gập ghềnh của núi, của chặng đường đi. Điều đó càng được tăng lên gấp bội nhờ "ngàn thước lên cao ngàn thước xuống". Chặng đường ấy cứ trùng trùng điệp điệp nối tiếp nhau. Thế nhưng trước thiên nhiên hoang sơ kĩ vĩ ấy là hình ảnh "súng ngửi trời". Đây là một hình ảnh tuyệt đẹp, lãng mạn của chàng lính Tây Tiến. Giữa núi rừng thiên nhiên hùng vĩ, người chiến sĩ vác súng trên vai. Câu thơ giúp người đọc cảm thấy như mũi súng có thể chạm đến đỉnh trời. Hình ảnh này khẳng định ý chí quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới " khó khăn nào cũng vượt qua- kẻ thù nào cũng đánh thắng".Giữa thiên nhiên hoang sơ ấy, tinh thần người chiến sĩ vẫn rất vững vàng:
" Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"
Bằng ngòi bút chân thực, Quang Dũng đã tái hiện sự thật đau thương của cuộc hành quân. Đã biết bao người đã ra đi "anh bạn dãi dầu không bước nữa". Nhưng hình ảnh ấy qua lời thơ Quang Dũng không hề bi thương mà hào hùng "gục lên súng mũ bỏ quên đời". Người chiến sĩ hào hùng hi sinh bên súng mũ trong tư thế hiên ngang "chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Hình ảnh người chiến sĩ hi sinh đã đi sâu vào lòng người đọc cho đến tận ngày nay. Quả đúng không ngoa "tượng đài tự do được xây bằng máu và nước mắt". Những khó khăn mới lại đến với đoàn quân. Đó là hiểm nguy rừng núi, chốn hoang sơ luôn rình rập "cọp trêu người", "thác gầm thét". Nhưng không vì thế mà người lính Tây Tiến nao núng. Trái lại họ còn lạc quan nhớ đến sự ấm áp của con người nơi đây " nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói-Mai Châu mùa em thơm nếp xôi". Cặp từ sáng tạo "mùa em" đã chứa bao tình thương nỗi nhớ của tác giả.
Thơ Quang Dũng đâu chỉ có hiện thực khắc nghiệt mà còn có phút lãng mạn, vui tươi:
" Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có thấy dáng người trên Độc Mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
Đoạn thơ này làm thay đổi không khí của toàn bài. Với âm hưởng vui tươi lạc quan, tác giả đã cho người đọc thấy sự hào hoa của người lính Tây Tiến. Đêm liên hoan văn nghệ thắm đượm tình dân quân đã in hằn trong tâm trí Quang Dũng khiến ông không thể nào quên. Hình ảnh những cô gái Thái xinh đẹp trong xiêm áo, e ấp trong điệu nhạc tiếng khèn, đã khiến người lính phải ngỡ ngàng " kìa em". Bằng tâm hồn lãng mạn, nhà thơ đã vẽ lên viễn cảnh mơ mộng của Châu Mộc trong chiều sương với "hồn lau", "hoa đong đưa". Phải chăng bông hoa ấy chính là hình ảnh cô lái đò trên dòng nước lũ? Nét duyên dáng thơ ngây của con người và cảnh vật đã được vẽ thành bức họa tuyệt trần qua thơ của Quang Dũng.
Nối tiếp mạch thơ là hình ảnh người lính Tây Tiến với vẻ đẹp kì dị, lạ lùng:
" Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Bút pháp tả thực lại một lần nữa được Quang Dũng thực hiện triệt để. "Đoàn binh không mọc tóc", "quân xanh màu lá" là kết quả của những trận sốt rét rừng. Thời kì này, chiến sĩ của ta chiến đấu trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, thiếu thốn lương thực, thuốc men, ngay cả trang bị chiến đấu "áo anh rách vai quần tôi có vài mảnh vá', " chân không dày"… Chiến sĩ ta nhiều khi chết bệnh còn hơn chết trận. Nhưng dù với dáng vẻ như vậy, người lính Tây Tiến vẫn hiên ngang, uy hùng không hề yếu ớt " dữ oai hùm", "mắt trừng". Đoạn thơ thể hiện rõ cảm hứng lãng mạn và bi tráng của nhà thơ. Quyết tâm giết giặc "gửi mộng qua biên giới" không làm giảm sự lãng mạn của người lính. Họ vẫn nhớ về quê hương, vẫn nhớ về người con gái Hà thành.
" Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Một mùi chết chóc sực lên ở đoạn thơ này. Một màu sắc ảm đạm, u uất bao trùm khổ thơ. Nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng, nó hiện lên bi tráng mà không bi lụy. Cái chí khí của người lính đã được bộc lộ rõ ràng. Họ quyết tâm đi "chẳng tiếc đời xanh" để đem lại nền độc lập cho dân tộc. Họ ngã xuống nhưng vẫn mang trong mình bầu máu nóng nhiệt huyết. "Áo bào thay chiếu anh về đất" như một cách nói giảm nói tránh. Người chiến sĩ ngã xuống là về với đất mẹ bao la. Một lần nữa, hình ảnh sông Mã lại hiện lên như tiễn đưa linh hồn người lính.
" Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường đi thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi"
Quang Dũng một lần nữa khẳng định ý chí sắt đá của người lính Tây Tiến. Họ ra đi không hề "hẹn ước". Họ đã ra đi không hẹn ngày trở về, họ quyết tâm dành lại độc lập cho dân tộc. Tinh thần " một đi không trở lại" của người lính Tây Tiến cũng như những anh bộ đội cụ Hồ lúc bấy giờ.
Bằng bút pháp nghệ thuật tả thực cùng cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã tạo ra một thi phẩm tuyệt vời. Chân dung người lính Tây Tiến đã được khắc họa rất rõ qua lời thơ và nỗi nhớ của tác giả dành cho tiểu đội của mình. Quả thực, "Tây Tiến" xứng đáng là bản anh hùng ca của chùm thơ cách mạng Việt Nam thời bấy giờ.
Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng – Bài làm 10
“Có một bài ca không bao giờ quên…”
Có một bài ca như thế. Cũng có những năm tháng không bao giờ quên, không phai mờ trong ký ức của nhiều thế hệ đã qua, hôm nay và mai sau. Đó chính là những ngày tháng kháng chiến chống Pháp, khi toàn dân tộc bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ với tất cả sức lực, niềm say mê. Chúng ta vừa qua nạn đói, vừa giành được độc lập thì thực dân Pháp trở lại xâm lược. Dấu ấn của nạn đói năm 45 vẫn còn, rất đậm, trong mỗi người Việt Nam. Tự do hay trở về cuộc đời cũ? Đấy là câu hỏi day dứt bao người. Theo tiếng gọi của tự do, những người nông dân, công nhân, học sinh, những người mẹ, người chị tham gia kháng chiến, tạo nên hào khí dân tộc của một thời đại.
Trong những năm tháng đáng nhớ ấy, văn học dù chưa dám nói là đã ghi lại trọn vẹn bộ mặt đất nước, nhưng cũng đã ghi lại được hào khí của một thời với hình ảnh bao người mà hình ảnh trung tâm là người chiến sỹ cụ Hồ. Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng cũng ra đời trong hoàn cảnh chung đó.
Bài thơ sáng tác tại Phù Lưu Chanh năm 1948 khi Quang Dũng đã chuyển đơn vị. Nhưng những ngày tháng sống và chiến đấu ở đoàn quân Tây Tiến là những kỷ niệm khó quên nên nỗi nhớ Tây Tiến da diết, cồn cào trong lòng tác giả. Toàn bài thơ là một nỗi nhớ. Tác giả nhớ về cuộc sống gian khổ, nhớ về kỷ niệm những đêm liên hoan, về cái âm u hoang dã của rừng núi và in đậm nhất là nỗi nhớ của người lính Tây Tiến.
Ra đi kháng chiến khi còn là thanh niên, học sinh Hà Nội. Quang Dũng cũng như đồng đội tác giả trở thành người lính. Kỷ niệm làm người lính Tây Tiến đã xa mà lại gần, để khi trở lại, tác giả phải bật lên:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Câu thơ kết thúc bằng dấu chấm than cùng với âm hưởng của vần ơi, tạo nên xúc cảm lớn. Hành ảnh đó là tiếng nói của Quang Dũng vang vọng dến đoàn quân Tây Tiến? Không! Đó là tiếng long của tác giả “Xa rồi Tây Tiến ơi” nhưng tấm lòng thì vẫn thiết tha lắm! Âm hưởng câu thơ có sức vọng làm cho tiếng lòng của Quang Dũng như xoáy sâu vào tâm hồn người đọc. Người đọc rung theo những xúc cảm do câu đầu mang lại để đến với nỗi nhớ Tây Tiến:
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Nỗi nhớ mới lạ lùng làm sao? “Nhớ chơi vơi!” Hình như trong ca dao ta cũng bắt gặp:
Ra về nhớ bạn chơi vơi
Nỗi nhớ “chơi vơi” là nỗi nhớ không định hình, khó nắm bắt đã diễn tả bằng lời. Nỗi nhớ ấy bao la, bát ngát lại có chiều sâu. Nói muốn tràn ra khỏi không gian để xoáy vào lòng người. Một người ngoài cuộc hẳn không thể có nỗi nhớ ấy. Chỉ có Quang Dũng với nỗi lòng của mình mới có nỗi nhớ ấy mà thôi. Với tấm lòng tha thiết thì hẳn nỗi “nhớ chơi vơi” là điều hoàn toàn có lý. Cũng sử dụng vần “ơi!” câu thơ có sức lan tỏa rộng. Vần “ơi” lan ra theo nỗi nhớ “chơi vơi” của tác giả.
Thông thương thường khi nhớ về một điều gì, người ta thường nhớ đến những kỷ niệm đẹp để lại dấu ấn không quên. Quang Dũng nhớ đầu tiên là nhớ về rừng núi.
Nhớ về rừng núi…
Rừng núi là nơi xưa kia tác giả cùng đồng đội đã cùng sống, cùng chiến đấu. Rừng núi in đậm bao nỗi khổ, bao niềm vui nối buồn của người chiến sỹ. Hơn ai hết, tác giả là người trong cuộc, tác giả nhớ về rừng núi, những khó khăn gian khổ mà mình đã từng nếm trải:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi.
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mấy súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Mặc dù cuộc sống gian khổ không phải điều nhà thơ chú trọng phác họa nhưng trước mắt ta vẫn hiện ra cái khắc nghiệt của rừng núi. Nhà thơ Tố Hữu đã từng có những câu thơ:
Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm
Mưa dầm cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng, chí không mòn.
Tố Hữu mô tả thẳng cảnh sống người lính. Quang Dũng không làm thế. Quang Dũng chỉ mô tả cái hoang vu, hoang dã của một vùng rừng núi nhưng qua cảnh đó ai cũng hiểu rằng đời lính là như thế đó. Họ sống giữa thiên nhiên như vậy đó. Với những địa danh xa lạ “Sài Khao”, “Mường Lát”, “Pha Luông” rừng núi như càng trở nên xa ngái, hoang vu hơn. Hơn thế, cần phải nhớ rằng đoàn quân Tây Tiến hầu như toàn là những chàng trai trẻ Hà Nội theo tiếng gọi kháng chiến ra đi, nhiều người còn là học sinh nên cảnh rừng núi càng xa lạ, đáng sợ hơn. Quang Dũng là người trong cuộc sống hiểu tâm lý ấy rất rõ.
Nỗi nhớ rừng núi bắt đầu bằng những cuộc hành quân:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Những cuộc hành quân đi qua và những cuộc hành quân mới lại tiếp nối trong cuộc đời người lính của Quang Dũng. Nhưng có lẽ cái mỏi mệt của những cuộc hành quân lần đầu sẽ không bao giờ đi qua cùng năm tháng cũng như rừng sương “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” sẽ in mãi dấu ấn, câu thơ chùng xuống, đều đều gợi lên sự mỏi mệt, bải hoải làm ta tưởng chừng như đoàn quân Tây Tiến sắp ngã, sắp chìm đi trong sương. Nhưng không, âm điệu bài thơ lại vút lên bởi một câu vần bằng:
Mường Lát hoa về trong đêm hơi. hơi.
Câu thơ ấy đã xóa đi cái mệt mỏi của đoàn quân Tây Tiến, để đoàn quân tiếp bước. Những khó khăn lại cứ rải trên đường người lính đi qua:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống.
Câu thơ với “khúc khuỷu” làm nên cảm giác hình như con đường đi khó khăn quá! “Dốc thăm thẳm” lại làm cho những khó khăn như nhiều hơn, dài ra theo tính chất “thăm thẳm” của con dốc và trên những đường dốc ấy. “Súng ngửi trời”. Chỉ riêng “heo hút cồn mây” đã gợi lên một không khí vắng vẻ, hoang sơ của rừng núi, súng ngửi trời cộng thêm vào cái vẻ đơn độc của người lính giữa đèo cao.
Những khó khăn gian khổ nhiều là thế nhưng lại nhẹ đi bởi câu thơ vần bằng tiếp sau:
Nhà ai Pha luông mưa xa khơi.
Cứ như thế, những câu thơ vần bằng xen giữa những câu thơ vần trắc, âm hưởng đoạn thơ trở nên trùng điệp hơn, âm điệu ấy cứ theo suốt bài thơ, cùng với cách dùng từ cổ kính của Quang Dũng góp phần tạo nên nét lãng mạn mà hào hùng cho bài thơ.
Cả khổ thơ đầu là những khó khăn của vùng rừng núi, của thiên nhiên hoang sơ. Đứng trước bức tranh dữ dội ấy, ai cũng thầm nghĩ: vậy người lính sống như thế nào nhỉ?
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm mường Hịc cọp trêu người.
Quang Dũng tả rất thực những khó khăn của cuộc kháng chiến mà đoàn quân Tây Tiến đã gặp nhưng không làm bài thơ trở nên bi thảm, lòng người bi quan mà chỉ để ngợi ca người lính. Tác giả lại tiếp tục đưa ta đến với người lính bằng ngòi bút rất thực ấy. Trước gian khổ, trên đường hành quân, nhiều người đã nằm lại mảnh đất xa lạ để không bao giờ tỉnh dậy:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa.
Nhưng anh hùng làm sao, những con người ngã xuống ấy! Người lính không chịu nỗi khổ hy sinh nhưng cũng tìm được cho mình một tư thế chết của người chiến sỹ:
Gục lên súng mũ bỏ quên đời.
“Bỏ quên đời” chỉ là cách nói nhằm giảm nhẹ sự mất mát, tang thương khi người lính lìa trần. Nhưng hình ảnh sử dụng rất đắc là hình ảnh “gục lên súng mũ”. Ta chợt nhớ đến dáng đứng của anh giải phóng quân về sau:
Anh ngã xuống trong khi đang đứng bắn
Máu anh tuôn theo lửa đạn cầu vồng.
Dáng đứng của anh giải phóng quân mãi mãi đi vào lòng người dân trong kháng chiến chống Mỹ thì dáng ngã xuống gục xuống của anh lính cụ Hồ hẳn sẽ không phai mờ trong tâm hồn của Quang Dũng, của đoàn quân Tây Tiến và của những người tham gia kháng chiến. “Gục lên súng mũ” cũng là cách nói nhẹ và cũng là cách nói của những người thanh niên trí thức lúc bấy giờ. Người lính ra đi nhưng đồng đội anh lại tiếp bước.
Những khó khăn lại đến:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm mường Hịch cọp trêu người.
Hình như ai đó đã nói về cách sử dụng từ “Mường Hịch” của Quang Dũng. Địa danh đọc lên có cảm giác như tiếng chân cọp đi trong đêm. Rừng núi trở nên rờn rợn, nguyên vẻ hoang sơ của nó. Ở nơi xa xôi con người lần đầu đặt chân, thiên nhiên là chủ thì khó khăn cũng như tăng lên gấp bội. Nhưng nét lạc quan, vui vẻ của người lính vẫn chẳng thể mất dọc cuộc hành trình:
Ôi nhớ Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Quang Dũng lại nhớ về những kỷ niệm của những đêm liên hoan. Nhịp điệu câu thơ như có gì náo nức, rộn rã:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Nguwoif đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Cái dữ dội, hoang dã của thiên nhiên trong hai khổ thơ đầu như biến mất đi sau những kỷ niệm vui của đoàn quân Tây Tiến. Nét nghịch ngợm vui tươi của những chàng trai thanh niên Hà Nội xúng xính giả làm con gái cùng tiếng nhạc và vẻ e ấp giả vờ, câu thơ với hai chữ “kìa em” vừa mang vẻ ngạc nhiên vừa mang nụ cười thoải mái của người chiến sỹ. Những kỷ niệm vui đó hẳn sẽ không quên trong lòng người cũng như vẫn còn nguyên vẹn trong lòng Quang Dũng vậy. Cùng với sự vui tươi, người lính Tây Tiến còn sống với bản lĩnh lãng mạn, với tâm hồn giàu chất thơ, giàu cảm xúc của mình. Một dáng người trên độc mộc vào một buổi chiều sương, một khóm hoa đong đưa trên dòng nước lũ…tất cả đi vào nhẹ nhàng ch cho cả đoạn thơ.
Quang Dũng xa Tây Tiến nhưng khoảng thời gian ấy chưa lâu nên kỉ niệm Tây Tiến vẫn còn nguyên vẹn. Nỗi nhớ “chơi vơi” trải khắp bài thơ nhưng đọng nhất vẫn là nỗi nhớ về người lính Tây Tiến. Có lẽ người lính Tây Tiến, hình ảnh của họ đã ăn sâu tận trong máu thịt của tác giả:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Câu thơ đầu hoàn toàn tả thực về người lính kháng chiến, nổi tiếng bởi tên gọi “Vệ trọc”. Giữa rừng núi hoang sơ, nạn sốt rét là nạn mà người lính thường mắc phải. sốt rét đến nỗi trọc cả đầu chỉ còn một vài sợi tóc lưa thưa, đến nỗi da xanh xao “màu lá”.
Bệnh sốt rét ác nghiệt như Chính Hữu đã từng mô tả:
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.
Sốt rét là bệnh tiêu biểu thường gặp ở người lính, khi Quang Dũng nói về điều này, tác giả muốn nói cho ta biết, người lính Tây Tiến sống như thế đấy! Họ sống và chiến đấu với cả gian khổ, cả bệnh tật nữa. Giữa bao nhiêu khó khăn người lính vẫn:
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Nét dữ tợn của người chiến sỹ Tây Tiến ở đây không làm nhạt tí nào hình ảnh người lính Tây Tiến trong ta. Bệnh tật, yếu đau tưởng chừng làm người chiến sỹ yếu đuối nhưng ta bất ngờ vì dáng vẻ “dữ oai hùm” làm mất đi sự yếu đuối của “đoàn quân không mọc tóc” và của “quân xanh màu lá” giúp cho câu thơ trên tiếp tục:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Đây chính là hai câu thơ tập trung nhất vẽ nên bức tranh người lính Tây Tiến và cũng là hai câu thơ hay nhất trong cả bài thơ. Người lính Tây Tiến sống với hình ảnh quê hương Hà Nội, chiến đấu với tương lai trước mặt. Hai câu thơ vừa mang nét lãng mạn của người chiến sỹ vừa có nét hào hùng. Mắt người lính “trừng” nhưng không hề mang nét dữ tợn, đấy chỉ là quyết tâm của họ. Họ quyết tâm chiến đấu cho Tổ quốc, đất nước, điều này là điều tâm niệm của mỗi người. Nhưng người lính không đánh mất đi nét đẹp tâm hồn: sự mộng mơ. Hai câu thơ trên có thời đã bị đem ra chỉ trích cùng với bài thơ đó là buồn rớt, bi quan, là tiểu tư sản. Đành rằng câu thơ có thoáng nét buồn cũng như bài thơ có thoảng những nét buồn: nhưng buồn ở đây đâu có làm mất đi quyết tâm của người lính Tây Tiến. Quyết tâm đánh giặc và lãng mạn phải kết hợp hài hòa mới có thể tạo nên vẻ đẹp tâm hồn người chiến sỹ một cách sâu sắc. (Đây là điểm mà đã có một thời vì hoàn cảnh lịch sử, vì một lý do nào đó người ta đã quên đi hay cố tình quên đi). Người lính Tây Tiến chiến đấu cho ai? Mục đích của họ hướng tới là gì nếu không phải quê hương mà cụ thể là Hà Nội. Người lính mơ về Hà Nội, về người thiếu nữ Hà Nội thì chính những mộng mơ ấy đã tiếp thêm sức mạnh cho người chiến sỹ sống và chiến đấu. Hai câu thơ chính vì thế lãng mạn mà rất hào hùng!
Người lính Tây Tiến gặp bao nhiêu gian khổ. Dọc con đường hành quân bao người đã ngã xuống vì gian khổ, vì khắc nghiệt của rừng núi, vì đau ốm, bệnh tật và họ ngã xuống vì chiến đấu.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ.
Câu thơ đọc lên mà sao thảm quá. Bao người nằm lại nơi xa lạ không người qua lại, chẳng bao giờ trở về. Từ “rải rác” làm ta cảm giác người lính Tây Tiến ngã xuống, ngã xuống nhiều trong cuộc chiến đấu, làm ta cảm giác thấm thía cái lạnh khi những người phải từ giã cuộc đời. Từ “viễn xứ” tạo nên sự xa xôi, lạnh lẽo của rừng núi, gợi lên sự cô đơn của những người nằm lại. Câu thơ trầm xuống, xoáy vào lòng ta một nỗi buồn không thể thốt lên lời, ta tưởng chừng như câu thơ sau không thể cất lên nổi, nhưng ngược lại:
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Câu thơ nhẹ nhàng như không hề mang chút gì bi thảm của những nấm mồ viễn xứ. Câu thơ trước tạo nên cái “bi” câu thơ sau tạo nên nét “tráng”. Cái không khí bi quan biến mất, chỉ còn lại nét ngang tang, chút thanh thản của người lính Tây Tiến “chẳng tiếc đời xanh” là cách nói của người thanh niên trí thức Hà Nội nhưng cũng mang cả quan niệm về lý tưởng chiến đấu, người lính biết rằng họ còn trẻ, họ chiến đấu có thể bị hy sinh. Đâu phải họ không tiếc cho tuổi trẻ. Không phải “tuổi trẻ là mùa xuân” đó sao! Nhưng cao hơn tuổi trẻ họ còn có tự do, quê hương. Con người hậu phương gửi gắm cả nỗi lòng của họ. Đó là lý tưởng tại sao người lính Tây Tiến chẳng tiếc đời xanh. Họ nằm xuống nhẹ nhàng:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Cách dùng từ “áo bào” làm câu thơ trở nên cổ kính hơn. Anh ra đi mãi mãi nhưng anh ra đi là do lẽ sống của mình mình sống mãi nên cái chết của anh nhẹ nhàng như “về đất” ngoài ý nghĩa làm giảm sự đau thương? Quang Dũng không muốn có bất cứ giọt nước mắt nào rơi trên thi hài người lính Tây Tiến. Người lính Tây Tiến sống lãng mạn, hào hùng thì chết cũng phải như vậy. Đấy chính là lý do tác giả có ý sử dụng từ cổ kính và nói theo lối nói của người lính Tây Tiến. Quang Dũng muốn nói rằng người lính Tây Tiến chiến đấu là cho quê hương thì sự ra đi của họ cũng nhẹ nhàng, thanh thản: họ về với đất. Đất như người mẹ giang tay ôm đứa con yêu vào lòng và người chiến sỹ ngự trong vòng tay mẹ. Như vậy anh hy sinh ở nơi xa nhưng linh hồn anh vẫn về bên đất mẹ. Câu thơ vì thế mất đi sự bi thảm vốn có. Anh chiến sỹ chết đi, quê hương ôm anh vào lòng, sông núi hát lên tiễn đưa anh:
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Không hề có tiếng khóc, giọt nước mắt tang thương. Chỉ có núi sông, đất mẹ chứng kiến cái chết của anh. Bóng dáng của anh hòa vào sông, hòa vào đất mẹ.
Người lính Tây Tiến ra đi nhưng hình ảnh của anh không bao giờ mờ phai trong tâm trí con người. Hình ảnh người lính và những kỷ niệm đậm mãi trong lòng Quang Dũng và mỗi chúng ta:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Bài thơ khép lại nhưng âm điệu vẫn mãi vang vọng trong tâm hồn ta. Nhịp điệu trùng điệp, nét lãng mạn hào hùng của bài thơ để lại dấu ấn trong ta. Có những tác phẩm đã gặp nhiều lần mà ta lại quên đi nhưng có những tác phẩm chỉ bắt gặp một lần lại sống mãi. Ấy là Tây Tiến!
Hình ảnh người lính Tây Tiến lung linh ngời sang với cả hào khí dân tộc.
Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng – Bài làm 11
Ra đời trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ, “Tây Tiến” là một hồi tưởng rất đẹp, những kỉ niệm đầy sống động về bức tranh thiên nhiên núi rừng Tây bắc và về người chiến sĩ Tây Tiến. Lúc đầu bài thơ có nhan đề là “Nhớ Tây Tiến”, trong lần in thứ hai tác giả đã bỏ đi chữ “nhớ” có phải tác giả sợ thừa không? Hay còn có lí do nào khác là sợ hẹp nghĩa. “Nhớ Tây Tiến” là xoáy vào cái tâm trạng, nỗi niềm riêng của cá nhân, còn “Tây Tiến” khái quát hơn, nó muốn thâu tóm cả đất trời Tây Tiến, cả một thời oanh liệt của Tây Tiến.
Mở đầu bài thơ là 14 dòng thơ đầu khắc họa bức tranh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ gắn liền với những kỉ niệm hành quân chiến đấu của đơn vị Tây Tiến, 8 câu thơ tiếp theo tô đậm tâm hồn hào hoa lãng mạn của đoàn quân Tây Tiến qua hai kỉ niệm đó là đêm hội đuốc hoa và buổi chiều hành quân trên sông nước vùng đất Châu Mộc, 8 câu thơ tiếp theo là bức chân dung bi tráng vẽ trực tiếp về tập thể đơn vị Tây Tiến, 4 câu thơ cuối như một sự hoài niệm về chặng đường của những người chiến sĩ Tây Tiến tình nguyện hi sinh thân mình vì đất nước.
Trong phần đầu tiên đó là 14 dòng thơ đầu đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội, bí hiểm mà thơ mộng trữ tình.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
…
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Trong bức tranh ấy, cả những chi tiết nhỏ nhất cũng thắm đượm, bao bọc chan hòa bởi một nỗi nhớ dằng dặc và da diết:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi với”
Hai câu thơ xác định rõ hai khoảng không gian khác nhau, không gian thực tại và không gian hồi tưởng. Tuy nhiên chỉ có độc giả mới nhận ra điều đó, còn với tác giả khi ông nói “xa rồi” là khi những hình ảnh của một quá khứ chưa xa đang ùa tới, nhấc bổng ông khỏi mảnh đất thực tại, để hồn thơ lơ lửng, “chơi vơi trong cõi nhớ”. Nỗi nhớ ấy như được giăng mắc một màn sương rất khó định hình, rất khó gọi tên, nỗi nhớ ấy dâng trào không kìm nén nổi đã khiến nhà thơ cất lên thành tiếng gọi “Tây Tiến ơi”. Điệp từ “nhớ” kết hợp với những âm “ơi”, “chơi vơi” tạo nên âm hưởng ngân mãi trong lòng người đọc , vọng mãi vào thời gian năm tháng, tô đậm các cung bậc cảm xúc. Trong tâm trí nhà thơ, các ấn tượng hãy còn nóng hổi, ta thấy các địa danh được hiện lên, tất cả như vẫn còn rành rành trong tâm trí:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Có thể nói nét độc đáo trong thơ Quang Dũng là đã hiện thực thì hiện thực đến khắc nghiệt mà đã lãng mạn thì lãng mạn đến mộng mơ. Bút pháp này được thể hiện rõ khi miêu tả thiên nhiên Tây Bắc. Thiên nhiên ấy vẫn thường thử thách các chiến sĩ, đôi khi muốn vùi lấp những sinh mạng bé bỏng trong khoảnh khắc của thung lũng sương mù. Nhưng cũng chính khung cảnh này, khiến tâm hồn các chiến sĩ Tây Tiến có dịp bay bổng, nếu “sương lấp” lạnh lùng, nặng nề đe dọa bao nhiêu thì “hoa về” lại nhẹ nhõm, tươi tắn, ấm áp bấy nhiêu. Khung cảnh núi rừng mà đoàn quân Tây Tiến bước chân qua vừa thơ mộng, nhưng cũng thật hùng vĩ, được gợi nên với những đèo dốc núi non hiểm trở:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Bốn câu thơ mang vẻ đẹp của thể thơ tứ tuyệt, một bức tranh thiên nhiên hoành tráng có núi, dốc, vực…hiểm trở, dữ dội nhưng cũng không kém phần thơ mộng. Các từ ngữ như “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” “heo hút”…đều là những từ ngữ giàu tính tạo hình được tác giả huy động để diễn tả thật chính xác cảnh núi rừng hoang sơ, hiểm trở. Quang Dũng không viết “súng chạm trời” mà viết “súng ngửi trời” cách viết này thể hiện được chất hóm hỉnh, nghịch ngợm của người lính. Hơn thế nữa khi miêu tả độ cao tác giả lại dùng từ chỉ độ sâu: “heo hút cồn mây súng ngửi trời” và có những câu thơ như bẻ gãy làm đôi: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” khiến ta liên tưởng đến những vách núi dựng đứng như hình gấp khúc. Có thể nói thơ Quang Dũng đậm chất nhạc, sau khi miêu tả sự khó khăn, hiểm trở của rừng núi Tây Bắc với những từ toàn thanh trắc như “khúc khuỷu”, “thẳm”, “hút”… thì ngay sau đó là một câu toàn thanh bằng: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” gợi vẻ êm đềm của không gian và trạng thái bình yên thanh thản của tâm hồn. Không chỉ có vậy, thiên nhiên Tây Bắc còn mang vẻ dữ dội, bí hiểm hoang sơ được thể hiện trong câu thơ:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Rừng núi với thác sâu, cọp dữ luôn là mối đe dọa khủng khiếp đối với người lính Tây Tiến, những phép tu từ nhân hóa thác biết gầm thét, “cọp trêu người” càng tô đậm thêm ấn tượng về sự hoang vu, dữ dội. Chính vì sự nguy hiểm đó nên có nhiều chiến sĩ đã không còn đủ sức theo kịp đồng đội, họ đã nằm lại nơi chân đèo, góc núi hoang vu, lãnh lẽo: “Gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Phép tu từ nói giảm, nói tránh “bỏ quên đời” vừa giảm đi sự đau thương, vừa thể hiện khẩu khí rất anh hùng, lãng mạn coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. 14 dòng thơ đầu được mở đầu bằng tiếng gọi da diết “Tây Tiến ơi” thì khi kết thúc tiếng gọi ấy lại lặp lại “Nhớ ôi Tây Tiến”:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Hai câu thơ thể hiện tình cảm quân dân thắm thiết, mặn nồng. Sau những ngày hành quân vất vả các chiến sĩ đã được nhận những tình cảm yêu thương, quý mến và những bát cơm xôi nếp ngày mùa nóng hổi từ những người con gái dân tộc duyên dáng, xinh đẹp.
8 dòng thơ tiếp theo là nỗi nhơ bang khuâng da diết về đêm hội đuốc hoa nơi núi rừng Tây Bắc, một sinh hoạt văn hóa, văn nghệ truyền thống của bộ đội ta trong kháng chiến:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
…
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Kỉ niệm về đêm hội hiện về thật sống động náo nức trong nỗi nhớ nhà thơ, doanh trại nơi đóng quân không hề tăm tối mà lại ngập tràn ánh sáng, một chữ “bừng” diễn tả ánh sáng đột ngột phá tan màn đêm tăm tối, chữ “bừng” ấy còn là sự bừng lên của tiếng nhạc và điệu khèn và của xiêm áo lộng lẫy.
Đêm liên hoan văn nghệ đoàn quân Tây Tiến từng bừng, nhộn nhịp như đêm hội bởi ánh sáng ngập tràn, bởi điệu nhạc rạo rực, ngất ngây và bởi vẻ đẹp của những cô gái dân tộc với xiêm áo lộng lẫy, dáng điệu e thẹn tình tứ đưa hồn người lính trẻ về tận Viên Chăn – thủ đô nước bạn Lào. Nếu ở bốn dòng thơ trên kỉ niệm tươi mới khiến lòng người xao động bồi hồi thì ở bốn dòng thơ sau lại như dìu dắt hồn người bang khuâng man mác về một chiều sương cao nguyên quyến rũ:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
…
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Không gian buổi chiều như giăng mắc một màn sương, buổi chiều sương ấy là một buổi chiều sương nơi cao nguyên Châu Mộc. Câu hỏi tu từ liên tiếp “có nhớ” rồi “có thấy” như xoáy sâu thêm cảm xúc bồi hồi, thương nhớ, nhớ về cảnh “hồn lau”, “hoa đong đưa” trên dòng nước lũ. Còn “dáng người trên độc mộc” phải chăng đó là dáng nét nhẹ nhàng, duyên dáng uyển chuyển, tài hoa hòa lẫn sự khỏe khoắn, mạnh mẽ của người chèo thuyền và chiếc thuyền chở bộ đội qua sông rất lạ đó là thuyền “độc mộc”, tất cả đã làm nên vẻ đẹp kì diệu lạ lùng rồi nhưng nếu hiểu từ hoa trong câu thơ này là người con gái thì những cô gái chèo thuyền tài hoa kia mãi mãi làm trái tim người chiến sĩ trẻ rung động, say mê, có khi thuyền qua sông rồi mà những đôi mắt đa tình vẫn còn ngoảnh lại ngắm mãi không thôi. Chỉ qua 8 câu thơ mà Quang Dũng đã cởi mở toàn bộ trái tim, tâm hồn lãng mạn thơ mộng, lạc quan của đoàn quân Tây Tiến đã lên đến đỉnh điểm, trên chiến trường đầy gian khổ hiểm nguy nhưng họ vẫn yêu đời, vượt qua mọi gian khổ để không gục ngã và hướng tới ngày độc lập, tự do.
8 câu thơ tiếp theo đã làm hiện lên rõ ràng cụ thể, sắc nét từ ngoại hình đến nội tâm của cả đơn vị Tây Tiến:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
…
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Hiện thực khốc liệt của cuộc chiến tranh gian khổ với nhiều mất mát hy sinh nhưng ở họ vẫn toát lên phong thái cốt cách anh hùng, một vẻ đẹp vừa hào hùng hào hoa và cũng vừa bi tráng.
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quan xanh màu lá dữ oai hùm”
Hai câu thơ có âm hưởng mạnh mẽ nhờ cách sử dụng từ ngữ tài hoa, dùng “đoàn binh” có âm vang hơn “đoàn quân’, đồng thời gợi ra hình ảnh đoàn binh luôn cầm chắc vũ khí trong tay với tư thế sẵn sang chiến đấu với tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Hai câu thơ đó chính là cái gân guốc bắt nguồn từ hiện thực khắc nghiệt. “Không mọc tóc” chính là hậu quả của những cơn sốt rét rừng, quân xanh màu lá cũng là một thực tế hiển nhiên, ở đây có thể hiểu là xanh màu áo, xanh màu lá ngụy trang hay là xanh làn da vì thiếu máu. Hiện thưc được khúc xạ qua bút pháp lãng mạn của Quang Dũng trở thành cách nói mang khẩu khí ngang tang, cứng cỏi, không mọc tóc chứ không phải tóc không thể mọc được vì sốt rét. Cách nói chủ động làm cho người lính Tây Tiến đì từ cái dữ dội của rừng thiêng mà ra xuất quỷ nhập thần trong mỗi nhiệm vụ. Ẩn sau ngoại hình ấy là sức mạnh nội tâm “dữ oai hùm” là khí phách của đoàn quân ấy, có tác dụng cực tả thần thái tư thế oai phong, dữ tợn của đoàn quân ấy khi đánh giặc. Những hình ảnh rất thực, giọng điệu lãng mạn của Quang Dũng như mang nghĩa tượng trưng rất khí phách. Khó khăn gian khổ là thế nhưng các chiến sĩ Tây Tiến vẫn không nguôi vơi đi nỗi nhớ, những tình cảm lãng mạn:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Những người lính Tây Tiến gân guốc, cứng rắn mạnh mẽ lại là những chàng trai hào hoa, phong nhã đầy mộng mơ. “mộng” và “mơ” của người lính được được gửi về hai phương trời: biên cương – nơi còn đầy bóng giặc với mộng giết giặc lập công và Hà Nội nơi quê hương yêu dấu – mơ những dáng hình thân yêu. ‘dáng kiều thơm’ ấy là vầng sáng lung linh trong kí ức. Nỗi nhớ của người lính Tây Tiến về dáng kiều thơm, thanh lịch, duyên dáng của thiếu nữ Hà Nội mang một vè hào hoa, lịch lãm vốn có của những trí thức đất nước Hà Thành. Lý tưởng, khát vọng của người lính Tây Tiến được thể hiện ở tinh thần xả thân vì nghĩa lớn, sự hy sinh cao cả để bảo vệ Tổ quốc:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Sau những câu thơ rắn rỏi đẹp đẽ thì đến đây âm điệu của câu thơ chợt trầm và trùng xuống để độc giả thấy rõ hơn bản chất của sự việc. Dường như đây là một cảnh phim được cố ý quay chậm, còn gì thiêng liêng, cao cả hơn sự hi sinh chấp nhận gian khổ của người lính. Trên đường hành quân người chiến sĩ Tây Tiến gặp biết bao ngôi mộ viễn xá của những người chết xa quê. Nhưng các chiến sĩ vẫn bình thản bởi vì họ sẵn sang chấp nhận điều đó. Một trong những lý do thôi thúc họ lên đường là hình ảnh của những người anh hùng mà họ tiếp nhận được trong văn chương. Vượt lên trên tất cả là khát vọng được ra đi được dâng hiến và xả thân cho đất nước. Hai câu thơ tiếp vẫn mang âm hưởng bi tráng, tô đậm thêm sự mất mát hi sinh nhưng đó lại là một cái chết cao đẹp – cái chết bất tử của người lính Tây Tiến:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
“Áo bào thay chiếu” là cách nói sang trọng hóa sự hi sinh của họ. Trong thực tế các chiến sĩ hi sinh thậm chí không có nổi một manh chiếu nhưng khi đi vào “Tây Tiến” cái đẹp để lại là cái đẹp trong tâm tưởng. “Về đất” là cách nói giảm nói tránh về sự mất mát đau thương. Đâu đây vẫn còn những giọt nước mắt đọng lại sau những hàng chữ. Hai câu thơ rắn rỏi mà cảm khái, thương cảm sâu xa. “Anh về đất” là hóa thân cho dáng hình xứ sở sau khi đã thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của mình. Sự hi sinh của những con người ấy lớn lao thầm lặng ly động cả đất trời khiến cho dòng sông Mã phải gầm lên khúc đôc hành. Tiếng gầm ấy như một lời vĩnh biệt những người con yêu của đất nước.
Bốn câu thơ cuối đã khép lại bài thơ nhưng hình ảnh về những người lính Tây Tiến – những người đã dùng máu của mình nhuộm thắm thêm lá cờ của Tổ quốc vẫn còn đó và sống mãi trong lòng người đọc:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”.
Bài thơ là một dòng chảy dài da diết cháy bỏng của Quang Dũng nhớ về đồng đội thân yêu. Với âm hưởng thơ hòa quyện giữa hiện thực và lãng mạn với hình ảnh thơ phong phú sinh động, Quang Dũng đã không chỉ vẽ nên một bức tranh thiên nhiên Tây Bắc vừa hoang sơ, hiểm trở lại vừa thơ mộng trữ tình mà ông còn chạm khắc vào lịch sử bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến với vẻ đẹp hào hoa, bi tráng. Chính vì vậy mà bài thơ mãi mãi là một hoài niệm không thể quên trong lòng người đọc bây giờ và mãi mãi về sau.
Từ khóa từ Google
- https://thegioivanmau com/phan-tich-bai-tho-tay-tien-cua-quang-dung